Đây là vòng hay vị trí
trung tâm điều đình chỉ huy toàn bộ bức tranh. Trong tranh vẽ hình con gà
(thỉnh thoảng vẽ hình bồ câu), rắn và heo. Ba con vật này chỉ huy và điều khiển
cho bánh xe chuyển quay, nên nó là điểm trung tâm quan trọng.
Gà là tượng trưng lòng
tham, tham đủ thứ, lòng tham vô đáy. Màu đỏ của lông gà trống dễ liên tưởng đến
lửa tham nung nấu những ai ôm và nuôi lấy lòng tham.
Hoặc vẽ bồ câu là chỉ cho
tham ái, dễ yêu, thấy là vuốt ve, ngã ái nên những gì ngã thích thì tâm muốn vơ
lấy để nhiễm, tăng trưởng lòng nhiễm, lòng thuận, mền mại, dễ chịu, hấp dẫn và
ngọt lịm (giống mía lau), thế nên khó thoát, khó chịu ngóc đầu lên.
Đức Phật dạy: Tham dục là
một hố than hầm, người bịnh tưởng lầm là ấm áp sung sướng, nên đâm đầu vào.
Rắn là biểu hiện cho tâm
sân giận. Khi chúng ta bực bội, khó chịu, tức giận, thù hằn thì mặt mày chúng
ta xanh lét, không có chút máu, giống như màu xanh xám của da rắn vậy. Và cứ
nuôi dưỡng lòng sân giận thì chúng ta sẽ đi đến trả thù, hãm hại người, giết
người, giống như rắn sẽ mổ và cắn hại những ai xâm phạm chúng.
Tâm chúng ta nếu không
biết ‘thiểu dục tri túc’, thì chúng ta ít khi nào hoan hỉ và vừa lòng với ai
lắm. Việc gì cũng càm ràm và khó chịu. Đây cũng là một dạng chủng tử của sân
giận, không hoan hỉ như Ca dao Việt Nam có câu:
“Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê
Cao chê giống ngỗng, thấp chê lùn.
Mập chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.”
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê
Cao chê giống ngỗng, thấp chê lùn.
Mập chê béo trục béo tròn
Gầy chê xương sống, xương sườn phơi ra.”
Sân hận mất bình an, nặng
quá thì đi đến căm thù là chất liệu của địa ngục ở cả hiện tại và vị lai. Nguy
hiểm của sân là kích thích thân miệng ý đi về đường ác. Sân làm bực bội là thọ
ấm, dấy lên suy nghĩ là tưởng ấm, chuyển biến tâm địa là hành ấm, bản chất
chủng tử của hành ấm là thức ấm, các tướng mạo hiện ra là sắc ấm. Thế là từ sân
giận mà chuyển hoá đầy đủ cả năm ấm xí thịnh. Đây là một trong tám khổ. Và vì
muốn thoát khỏi tám khổ này mà thái tử Sĩ Đạt Đa đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa
nơi cung điện để xuất gia học đạo.
Heo là biểu tượng của sự
ít quan tâm đến sự sạch sẽ của tâm hồn. Thân thể nặng nề, màu da xám tối.
Nếu thân mình nhơ bẩn
liền đi tắm. Ngày mai lại mồ hôi cáu bẩn, lại đi tắm, như thế người này được
coi là sạch sẽ. Đó là thân, còn tâm của chúng ta? Mỗi khi nói lỡ một câu sai,
lỡ một hành động quấy, lỡ sân thì ta lại sám (rửa) hối (tiếc), sám hối là làm
mới lại, là tắm rửa tâm đó, còn ngược lại là si, ít quan tâm đến tâm tư trong
sáng; cứ để cho các phiền não, buồn phiền, ghen ghét, bực bội… nặng nề bao phủ.
Đức Phật dạy cái khổ ngu
si là đáng sợ hơn cả. Vì ngu si là mê muội, không biết tránh ác, làm lành để
đến nỗi tự đọa đầy.
Chúng ta thấy ba con này
cắn đuôi nhau. Gà ngậm đuôi rắn. Rắn ngậm đuôi heo. Heo ngậm đuôi gà nghĩa là
ba độc tham, sân và si mật thiết dính liền nhau. Vì si mới tham, tham bị chướng
ngại liền sân. Ngày đêm ba con này không ngừng hoạt động trong tâm, kích thích
chúng ta tạo nghiệp để cảm luân chuyển chịu báo.
Trong kinh Pháp Cú (1) có
dạy:
“Không lửa nào bằng tham,
Không chấp nào bằng sân,
Không lưới nào bằng si,
Không sông nào bằng ái.”
Không chấp nào bằng sân,
Không lưới nào bằng si,
Không sông nào bằng ái.”
Đức Phật với Phật tuệ
biết được một trận mưa có bao nhiêu giọt. Nhưng vòng luân hồi đắng cay, biển
khổ trầm luân của tham, sân, si và ái này, khổ nhiều quá gọi là biển khổ, không
đếm được.
Cũng trong kinh Pháp Cú,
Đức Phật dạy chúng ta điều phục tham dục và sân giận:
“Khó nắm giữ giao động,
Tâm phàm dục chi phối,
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều hưởng an lạc.” (2)
Tâm phàm dục chi phối,
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều hưởng an lạc.” (2)
“Hận thù diệt hận thù,
Đời này không thể có,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật thiên thu.” (3)
Đời này không thể có,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật thiên thu.” (3)
Cố Hoà Thượng Thích Thiện
Siêu đã viết trên tấm sáo hoành rằng:
“Một chút giận, hai chút tham,
lận đận cả đời ri cũng khổ.
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn,
thong dong tấc dạ rứa mà vui.”
lận đận cả đời ri cũng khổ.
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn,
thong dong tấc dạ rứa mà vui.”
Người ngu si thấy dưới
lòng nước có trăng, lao đầu xuống mò kiếm. Nhọc sức luống uổng mà còn phải chịu
cái khổ chết chìm. Chúng sanh từ lịch kiếp lầm nhận vọng tưởng phân biệt duyên
theo sáu trần làm tâm. Suốt đời vất vả mưu cầu hạnh phúc hảo huyền, kết cuộc
chẳng nắm bắt được gì. Tâm phan duyên nuôi ba độc tham sân si, đưa đến sát đạo
dâm vọng để trầm nịch (chìm đắm) luân hồi, không biết bao giờ mới ngóc đầu ra.
Gió giác quan nếu không
theo dõi sẽ gây bão tố tham sân si, nuôi gà rắn heo. Tham sân khiến miệng nói,
thân làm sai quấy. Si mê thấy thiện ra ác, ác ra thiện. Ba thứ phiền não này
vừa như lửa nung nấu, vừa như nước nhận chìm.
Chúng ta nghe lời Phật
dùng hơi thở (thân niệm xứ, quán sổ tức) để trở về với chánh niệm, không bận
lòng đến đối phương. Hành động xấu xa, lời nói độc ác, vừa nói đã tan theo bản
chất vô thường của nó, vì cứ vơ lấy nghĩ ngợi nên mình tự đốt nhà mình. Chính
sân hận của mình hại mình, nên tập mát mẻ. Tổ Huệ Khả xưa kia bị chặt tay mà
không sân giận. Thân ta là đất nước gió lửa nên chẳng có nhục nào để nhẫn. Nhớ
tâm từ để diệt trừ ác ý. Nhớ tâm bi để trừ tàn nhẫn. Nhớ tâm hỉ để trừ phiền
hận. Nhớ tâm xả để trừ thù oán là các chủng loại họ hàng của con rắn.
Chúng ta thấy ba con gà, rắn và heo chạy trên màu xanh da trời là màu hư vọng. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… là căn bản phiền não, là gốc của tái sanh, gốc của sanh tử luân hồi. Chúng ta nuôi ba con này trong lòng nên bồi đắp mãi cảnh luân hồi. Vị trí trung ương điều khiển bánh xe, là tạo hoá bày ra vũ trụ, nhưng thể chất là hư vọng, tỉnh là tan ngay.
Chúng ta thấy ba con gà, rắn và heo chạy trên màu xanh da trời là màu hư vọng. Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… là căn bản phiền não, là gốc của tái sanh, gốc của sanh tử luân hồi. Chúng ta nuôi ba con này trong lòng nên bồi đắp mãi cảnh luân hồi. Vị trí trung ương điều khiển bánh xe, là tạo hoá bày ra vũ trụ, nhưng thể chất là hư vọng, tỉnh là tan ngay.
Ví dụ như chàng Dasá vốn
là một công tử giàu có tham mê tửu sắc. Bên cạnh chàng biết bao là cung phi mỹ
nữ. Một đêm đó, sau buổi yến tiệc tan, các công nương, kỹ nữ mỹ miều nằm lăn ra
ngủ vì quá mệt. Các nàng tóc tai rối bù, xiêm y xốc xếch, nước miếng từ miệng
chảy ra, miệng mớ nói lảm nhảm, phấn son loè loẹt… trông gớm ghiếc như những
bóng ma. Chàng hoảng sợ chạy khỏi cung đình và đến quỳ sụp dưới chân Phật thưa
rằng chàng muốn thoát khỏi địa ngục sống đó. Đức Phật diễn thuyết một bài pháp,
sau đó Dasá liền tan lòng ái nhiễm, tâm không còn lợn cợn bợn nhơ của dục nhiễm
sắc đẹp nữa mà trong sáng thanh tịnh như một tấm lụa trắng. Như vậy lòng
ái nhiễm là cái chợt đến và chợt đi, chớ không thật.
Hay tên giết người Vô Não
đã rượt đuổi để chặt ngón tay Phật, cho đủ 100 ngón để dâng lên tà sư cầu khẩn
được thần thông. Đức Phật vẫn đi từ từ, nhưng Vô Não chạy hoài đến mà bắt không
kịp được Phật. Vô não la lên: “Này Cồ Đàm hãy dừng lại!” Đức Phật trả lời: “Ta
đã dừng từ lâu rồi. Chỉ có ngươi là nên dừng lại thôi!”. Vô Não tỉnh ngộ về sự
‘đứng lại’ tức ‘đình chỉ ác tâm này’, và chàng quăng gươm xuống, xin quy y làm
đệ tử Phật. Thế là tan lòng sát, bỏ con dao trong tâm. Như thế tâm ác cũng tan.
Chúng ta hàng ngày đang thương
hay ủng hộ một vị nào đó nhưng khi biết người đó không đồng lòng, không trung
thành, chung thủy, không tốt với mình… thì tự nhiên tình thương biến mất và bắt
đầu lòng căm thù ghen ghét nổi lên. Nếu gặp bạn lành khuyên nhắc hoặc nghe bài
pháp, thì lòng căm thù, bực bội liền tan.
Thế nên, tham sân si là
cái không có mà chúng ta nhận là mình, chúng ta tạo nghiệp. Lồng mình vào nó
khiến nó dựa vào mình mà bốc lên. Tỉnh thì thành không. Vâng theo Phật thì ra
khỏi luân hồi, còn nuôi ba con này trong tâm thì chúng ta xây dựng bồi đắp mãi
cảnh trầm luân không biết bao giờ mới cạn.
Ngài Huệ Khả bạch tổ Đạt
Ma: “Tâm con không an. Xin ngài an tâm giùm con!” Tổ bảo: “Đem tâm ra đây ta an
cho”. Ngài Huệ Khả quay lại tìm tâm hoài mà không thấy, mới biết bản lai không,
nào có ai trói buộc mình. Tâm mình vốn không có con gà, rắn và heo.
Ngài A-nan trong kinh
Lăng Nghiêm tìm tâm ở bảy chỗ (4) là tâm trong thân, ngoài thân, tâm núp sau
con mắt, nhắm mắt thấy tối là tâm, hợp chỗ nào thì tâm có chỗ nấy, tâm ở giữa
căn và trần, không dính vào đâu hết là tâm. (5) Tìm ở bảy chỗ mà vẫn không thấy
cái tâm yêu thích (yêu thích 32 tướng đẹp của Phật mà xuất gia) của A nan ở
đâu? Vì vọng nên tìm hoài không được. Con bồ câu trên nền xanh dương. Thế cho
nên tâm tham, sân và si vốn bản là hư vọng, là màu xanh hư vọng là vậy.
Đức Phật trong kinh Pháp
Cú đã nói lên sự tịch lạc của việc tan tham ái (tức không nuôi con bồ câu nữa),
đã thấy tham ái là vọng, là có thể làm chủ được mình như sau:
“Lang thang bao kiếp sống,
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay sống luân hồi.” (6)
Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này,
Khổ thay sống luân hồi.” (6)
“Ôi! người làm nhà kia,
Nay ta đã thấy ngươi,
Ngươi không làm nhà nữa,
Rui mè ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan,
Tâm ta đạt tịch diệt.
Tham ái thảy tiêu vong”. (7)
Nay ta đã thấy ngươi,
Ngươi không làm nhà nữa,
Rui mè ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan,
Tâm ta đạt tịch diệt.
Tham ái thảy tiêu vong”. (7)
Đức Phật xác chứng lại
điều này khi ngài đang nhập hạ an cư tại Kausambi (sau chín năm giác ngộ). Có
một gia đình bà-la-môn đang đi tìm phò mã cho cô con gái tiểu thư xinh đẹp.
Ngày nọ, Đức Phật khất thực đi ngang. Ông Bà-la-môn thấy dung nghi 32 tướng (8)
của Đức Phật sáng ngời và đỉnh đạc khác thường, bèn mời vào cúng dường thanh
trai. Sau đó ngỏ lời muốn Đức Phật ở lại đây làm phò mã. Nhưng Đức Phật từ chối
bằng bài kệ như sau:
“Đã nhận thấy ái dục, bất mãn và tham vọng,
Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình.
Thể xác đầy ô trược này là chi?
Ta chẳng bao giờ muốn sờ đến nó dù chỉ bằng chân.”
Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình.
Thể xác đầy ô trược này là chi?
Ta chẳng bao giờ muốn sờ đến nó dù chỉ bằng chân.”
(1) Dhammapala, tr. Ven.
Narada Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) kệ số 251.
(2) Nt, (versse) kệ số
35.
(3) Nt, (versse) kệ số 5.
(4) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm
Minh dịch, NXB TP HCM, 1999, tr 35-59.
(5) Nếu không dính là có
hay không có? Nếu không có thì là lông rùa, sừng thỏ rồi có gì mà không dính
dáng. Còn mà đã có cái không dính dáng thì không thể gọi là không.
(6) Nt, (versse) kệ số
153.
(7) Nt, (versse) kệ số
154.
(8) Trường Bộ Kinh, Digha
Nikaya, 14. Kinh Ðại bổn (Mahàpadàna sutta) Tụng phẩm I đã miêu tà về 32 tướng
tốt của Đức Phật là:
"Ðại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài... (như trước)
"Ðại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm mại...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da lưới...
"Ðại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con sò...
"Ðại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê rừng...
"Ðại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm tàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng, màu sắc như vàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt khiến bụi không thể bám dính vào...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân hình cao thẳng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn đầy...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như con sư tử...
"Ðại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết giữa hai vai...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân thể cân đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông tròn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức sắc bén...
"Ðại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư tử..
"Ðại vương, Hoàng tử này có bốn mươi răng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng đều đặn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng không khuyết hở...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ) trơn láng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
"Ðại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh đậm...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò cái...
"Ðại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân...”
"Ðại vương, Hoàng tử này có lòng bàn chân bằng phẳng, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, dưới hai bàn chân của Hoàng tử này, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe, vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ, tướng này được xem là tướng của bậc Ðại nhân.
"Ðại vương, Hoàng tử này có gót chân thon dài... (như trước)
"Ðại vương, Hoàng tử này có ngón tay, ngón chân dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân mềm mại...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tay chân có màn da lưới...
"Ðại vương, Hoàng tử này có mắt cá tròn như con sò...
"Ðại vương, Hoàng tử này có ống chân như con dê rừng...
"Ðại vương, Hoàng tử này đứng thẳng, không co lưng xuống có thể rờ từ đầu gối với hai bàn tay...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng mã âm tàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có màu da như đồng, màu sắc như vàng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có da trơn mướt khiến bụi không thể bám dính vào...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông da mọc từ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân hình cao thẳng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bảy chỗ tròn đầy...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nửa thân trước như con sư tử...
"Ðại vương, Hoàng tử này không có lõm khuyết giữa hai vai...
"Ðại vương, Hoàng tử này có thân thể cân đối như cây bàng (nigrodha: ni-câu-luật). Bề cao của thân ngang bằng bề dài của hai tay sải rộng, bề dài của hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân...
"Ðại vương, Hoàng tử này có bán thân trên vuông tròn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có vị giác hết sức sắc bén...
"Ðại vương, Hoàng tử này có quai hàm như con sư tử..
"Ðại vương, Hoàng tử này có bốn mươi răng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng đều đặn...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng không khuyết hở...
"Ðại vương, Hoàng tử này có răng cửa (thái xỉ) trơn láng...
"Ðại vương, Hoàng tử này có tướng lưỡi rộng dài...
"Ðại vương, Hoàng tử này có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng-tần-già (Karavika)...
"Ðại vương, Hoàng tử này có hai mắt màu xanh đậm...
"Ðại vương, Hoàng tử này có lông mi con bò cái...
"Ðại vương, Hoàng tử này giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên, mịn màng như bông nhẹ...
"Ðại vương, Hoàng tử này có nhục kế trên đầu, tướng này được xem là tướng tốt của bậc Ðại nhân...”
Vòng nghiệp chia hai: Nửa
bên nền đen có những người trần truồng ngã nghiêng té nhào đầu hướng xuống. Đây
là những người đáng thương đi vào tăm tối. Sát sanh, trộm cắp, tà dâm… là
nghiệp đen, là hành động của thú tánh, cảnh dưới, cảnh tam đồ nên đưa về cảnh
thú. Nửa bên nền trắng có bốn chúng đệ tử tay cầm đèn sáng đi lên. Tỳ kheo, tỳ
kheo ni đang cầm đuốc soi đường cho các ưu bà tắc và ưu bà di. Đây là hình ảnh
của những người đi vào ánh sáng, thế nên trên nền trắng.
Chúng ta có những địa
ngục trong nhà với những cảnh: sáng chặt đầu cá, moi ruột, róc vẩy; trưa bát
canh cua, luộc ốc nấu sống trên bếp, tối cắt cổ gà, lấy huyết. Tiệc tùng lớn
thì giết trâu, mổ lợn… Chúng ta tạo địa ngục từ ngày này đến ngày khác, năm này
đến năm khác, không ngày nào tha chúng sanh. Trẻ làm quỷ sứ để hầu chồng, hầu
con; lớn lên hầu cháu hầu chít, lo làm vừa lòng những bữa cỗ trong gia đình.
Con gà, có cá, con trâu,
con heo… chúng cũng thở bằng mũi, ăn bằng miệng, cũng hai lá phổi, cũng nhìn
bằng mắt, nghe bằng tai, cũng da bọc thịt, thịt bọc xương, cũng một lá gan như
mình mà sao mình lại cứa cổ nó, cướp da, cướp thịt nó để nuôi miệng mình. Thết
đãi khách chúng ta cứ cho là có gà vịt mới sang, mới quý. Vì thế, làm ác mà
không biết là ác, không hổ thẹn. Một đời sát hại như vậy. Rồi đến lúc hấp hối,
chúng ta mời chư tăng ni đến tụng kinh gõ mõ cầu siêu một, hai giờ để đưa chúng
ta về cực lạc thì chúng ta nghĩ có dễ không?
Còn trong lúc giao thiệp
buôn bán, mình xoay sở dối trá cầu lợi quá đáng, thành mình vẫn mặc áo đẹp, vẫn
nhung, vẫn gấm mà vẫn phạm giới ăn cắp. Khổ nỗi lại vương vương tự đắc cho là
khôn, là tài. Cho nên chúng ta vẫn cứ ở trong vòng đen, vẫn sai quấy, vẫn trần
truồng (không biết hổ thẹn) mà không tự biết và nằm nghiêng ngửa (ác nghiệp là
ngã té).
Vì thế, chỉ khi nào có
chư tăng ni dẫn đường, quý vị mới đi trên đường trắng, tạo những nghiệp lành.
Đức Phật không bắt chúng ta làm những điều khó. Chỉ cần đừng làm ác là lành
rồi. Không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối… đó là lành rồi. Đi trên con
đường trắng, chúng ta đi về cõi trời, người. Nếu cứ sát sanh, trộm cắp, dối
láo, hai lưỡi, nói lời độc ác và những thói xấu là ở trong vòng đen, trần
truồng không biết. Sai quấy mà không tự biết.
Đức Phật dạy từ cõi thú
trở về cõi người khó hơn con rùa mù tìm được bọng cây nổi.
Có một con rùa mù ở đáy
biển. Một trăm năm mới có cơ duyên ngóc đầu lên mặt nước một lần. Rùa ao ước
được chui đầu vào một bọng cây đang bị sóng vỗ đẩy trôi khắp nẻo đại dương bao
la.
Rùa mù: mù là vì còn ngã, pháp chấp. Trăm năm: thời gian dài đọa
lạc trong ác đạo. Đây nói tượng trưng trăm năm, chứ thật ra mình trăm ngàn vạn
kiếp rồi, từ vô thủy không đếm nổi. Ngóc
đầu: thoát thân ác thú. Bọng
cây: tử cung của người nữ (chứ không phải là con thú cái). Nơi bào thai
thành tựu thân người. Sóng vỗ
đẩy trôi: Trùng trùng nhân duyên biến đổi, kiếp này sang kiếp khác.
Trong Quy sơn cảnh sách
cảnh tỉnh chúng ta về sự vô thường, hãy quay về đường lành giác tỉnh qua câu
chuyện ‘người bị voi dữ đuổi’.
Chuyện rằng có người chạy
thục mạng vì bị voi điên rượt. Gặp giếng nước cạn liền nắm vội rễ cây đa tuột
xuống. Nào ngờ dưới đáy giếng có bốn con rồng đói khát, mắt đỏ rực đang ngửa
lên phun lửa. Bốn bên thành giếng lại có bốn con rắn độc thè lưỡi nhe nang phà
hơi độc. Sợ quá! chỉ còn trông cậy ở hai sợi dây đa tòn teng để tạm sống. Khốn
nổi! sợi giây yếu quá! khô quá! sức nặng của người đó trì xuống. Lại oái ăm
thay! có hai con chuột, một trắng và một đen bên thành giếng cứ thay nhau gặm
và nghiền rễ đa, khiến sợi dây mòn dần, cứa dần… Giữa lúc mạng sống tòn teng
mỏng manh sắp chết đó, trong lúc bối rối, người ấy ngửa mặt lên trời, bỗng đâu
có năm con ong bay qua giếng và để rơi xuống năm giọt mật. Mãi liếm mật ngọt,
vị này ngây ngất và khoái chí hưởng thụ, quên hết những sự nguy hiểm, nguy nan
đang rình rập lấy mình.
Trong chuyện, voi đuổi là tượng trưng cho sự vô thường bức
bách, con người đi đến cái chết. Rễ
đa tòn teng trong giếng: Mạng sống mong manh của kiếp người tức kiếp
trược. Ba con rồng: tham
sân si nung đốt kích thích chúng ta tạo nghiệp. Chỉ chờ mạng sống đứt là rơi
vào ba cõi. Bốn rắn: ổ
bịnh hoạn. Chuột đen và trắng:
Ngày và đêm trôi qua, sanh mạng mòn dần, cái chết sập đến. Năm giọt mật: mãi say mê liếm
mật ngọt lịm của năm dục, năm trần, quên cả nguy nan, lo âu nguy hiểm. Thế nên,
vô thường vội vàng, mệnh trong hơi thở, nỗ lực tiến tu, chớ nhàn nhã qua ngày,
qua tháng như cá cạn nước còn mong mỏi thú vui gì.
Có một người tù biết ba
ngày nữa sẽ đưa ra ải để tử hình. Vị thầy vào thăm và hỏi con sẽ làm gì trong
những ngày còn lại? Đáp: Con chỉ có một việc là niệm Phật và cầu nguyện cho
được vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Chúng ta ai cũng phải
chết. Đó là cái chắc chắn, nhưng vì không biết được ngày chết nên chúng ta cứ
nhởn nhơ như cá cạn nước mà không biết. Người tử hình kia may mắn biết được
ngày giờ nên có sự chuẩn bị tư lương.
Niệm niệm lìa trần, tâm
tâm xuất thế. Chúng ta từ vô thủy kiếp mê đắm sắc thân bốn đại, luân chuyển
chịu báo. Mê càng chứa mê từ khổ vào khổ. Gió cảnh thuận nghịch dậy sóng yêu
ghét, khiến chúng ta càng chìm sâu trong vô minh phiền não. Các tổ cảnh sách để
chúng ta tỉnh mộng thế gian. Nương pháp thuyền từ qua bến sanh tử.
Kinh Pháp Cú dạy làm ác
(đen) và thiện (trắng):
“Nay buồn, đời sau buồn,
Kẻ ác hai đời buồn.
Buồn nản tự diệt mình,
Thấy việc ác mình làm”. (1)
Kẻ ác hai đời buồn.
Buồn nản tự diệt mình,
Thấy việc ác mình làm”. (1)
“Nay vui, đời sau vui,
Người thiện hai đời vui,
An vui quá an vui,
Thấy việc thiện mình làm.” (2)
Người thiện hai đời vui,
An vui quá an vui,
Thấy việc thiện mình làm.” (2)
Kinh Lăng Nghiêm (3) khai
thị về phận trong và phận ngoài của chúng sanh như sau:
Đức Phật dạy: A-nan, tất
cả chúng sanh thật vốn chân tánh thanh tịnh, nhân những vọng kiến mà có tập khí
hư vọng sinh ra, vì thế chia ra có phận trong và phận ngoài.
1) A-nan nhân lòng ái
nhiễm phát khởi ra vọng tình, tình chứa mãi không thôi, có thể sinh ra ái thủy.
Vậy nên chúng sanh, tâm nhớ thức ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra, tâm nhớ
người hoặc giận, hoặc thương thì trong con mắt lệ tràn, tâm tham cầu của báu
thì trong tâm phát ra ái diên, cả mình đều trơn láng, tâm nghĩ việc ái ân thì
hai căn nam nữ tự nhiên dịch khí chảy ra.
A-nan các cái ái đó tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng.
A-nan các cái ái đó tuy khác nhau nhưng kết quả chảy nước là đồng.
Thẩm ướt không lên được,
tự nhiên theo đó mà sa đọa, ấy gọi là phận trong, tức những ham muốn dục vọng
thấp kém bên trong của chúng ta. Những lòng ái nhiễm, tham dục đều là những
vọng tình thấm vào trong tâm thức, làm cho càng thêm nặng nề, do đó phải bị sa
đọa, đó là phận trong.
2) Nhân các lòng phát
ngưỡng, phát minh ra những lý tưởng, tưởng chứa mãi không thôi, có thể sinh ra
những thắng khí, vậy nên chúng sanh tâm giữ cấm giới cả mình nhẹ nhàng trong
sạch; chúng sanh tâm trì chú ấn, con mắt ngó hùng dũng nghiêm nghị; tâm muốn
sinh lên trời, chiêm bao thấy bay lên; để tâm nơi cõi Phật, thánh cảnh thầm
hiện ra; thờ vị thiện tri thức, tự khinh rẽ thân mệnh mình.
A-nan, các tưởng đó tuy
khác nhưng nhẹ nhàng cất lên thì đồng nhau, cất bay không chìm xuống, tự nhiên
vượt lên, đó là phận ngoài, tức nhàm chán kiếp khổ của chúng sanh và mơ ước
được giải thoát, chúng sanh phát ra những tư tưởng thanh cao nhằm thoát ly các
sự mê lầm, ô nhiễm. Những tư tưởng ấy, thuận theo lý trí, chống lại vọng tình,
làm cho tâm thức nhẹ nhàng, vượt lên các cõi trên, đó là phận ngoài.
Việc ác thuộc về phận
trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm
thức đi lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây
ra nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo.
Quả báo giống nhau thì
thọ cảnh giới giống nhau.
Quả báo khác nhau thì thọ
cảnh giới khác nhau.
Do phận trong và ngoài
tạo nghiệp mà đưa đến vòng kế tiếp là vòng khổ của sáu đạo.
(1) Dhammapala, tr. Ven. Narada Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) kệ số 15.
(2) Nt, (versse) kệ số
16.
(3) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm
Minh dịch, NXB TP HCM, 1999, tr. 683-7.
Không gian không ngằn mé
gọi là vũ. Thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong khoảng không gian vô
cùng và thời gian vô tận đó, theo quan điểm của Phật giáo có vô lượng vô biên
các loài chúng sanh đang tồn tại. Mỗi loại đúng theo tâm thể nhiễm tịnh, nghiệp
duyên thiện ác sai khác, khiến sự thọ dụng cảnh giới của họ cũng có khổ đau hay
hạnh phúc bất đồng.
Theo bánh xe luân hồi này
thì tùy quả báo mà chia ra thành có sáu cảnh giới, sáu loài, hay sáu cõi như
cõi trời, a-tu-la, người, bàng sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Theo kinh Lăng Nghiêm
thì chúng ta có thêm một cõi nữa là cõi tiên. Nên nơi đây sẽ giảng thêm cảnh
tiên thành ra có bảy cảnh giới.
1/ CÕI TRỜI
Do phước báo bố thí và
thiền định, nên cõi trời có chánh báo và y báo như cảnh vật vui tốt, mọi người
vui sướng, căn thân đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thông, dạo đi tự
tại, những đồ y phục sẵn có, những cuộc du hí đủ bày, trăm thức tự nhiên thọ
dụng đủ điều khoái lạc, không có những sự khổ như ở nhân gian. Các phước báu
trong cõi đó, tuy là mỹ mãn như thế nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất,
không có chắc chắn, đó chính là sự vô thường, tướng vô định… Thế nên dẫu có
sống đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo.
Kinh Tăng chi dạy: Nữ
nhân mạng chung được sanh lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm
thanh và lạc thọ) là do vị ấy có tám điều như:
- Tận
tâm thương quý gia đình
- Tôn
trọng sư trưởng và thân quyến
- Hết
lòng quán xuyến việc nhà
- Đối
xử thích hợp với người giúp việc
- Kỹ
càng bảo quản tài sản
- Quy
y Tam bảo
- Giữ
năm giới
- Hoan
hỉ bố thí.
Thường ta nghe nói hiện
tiền giữ 10 giới thì khi mạng chung được sanh lên cõi trời. Tròn năm giới thì
được làm người. Nhưng ở đây kinh Tăng Chi chỉ ra giữ năm giới cũng được sanh
lên trời và tự tại trong ba địa hạt (nhan sắc, âm thanh và lạc thọ) là nhờ do
công đức tròn bổn phận của mình đối với gia đình và xung quanh.
Như vậy, thật ra ở cương
vị nào cũng được, chỉ cần thiện chí, có trí tuệ tháo vác mong đem an vui cho
người, không cầu tư lợi. Cử chỉ săn sóc, ánh mắt ưu ái, lời nói ân cần, hoà nhã
lịch sự, siêng năng phụng sự xung quanh là nhân thiết yếu để sanh thiên.
Những chúng sanh hưởng
thụ cảnh giới tốt hơn người gọi là trời. Có ba cõi trời:
- Có
những loài trời còn nghĩ ít nhiều đến sự ái ân thì gọi là loài trời Dục
giới.
- Có
những loài trời thoát ly ngũ dục nhưng còn sắc thân thì gọi là loài trời
Sắc giới.
- Còn
thoát ly ngũ dục và không sắc thân thì gọi là loài trời Vô Sắc giới.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (1)
dạy rằng:
I/ Dục Giới Thiên (có 6 cõi trời Dục giới)
- Tứ
Thiên Vương: vẫn ái ân với vợ hoặc chồng nhưng không tà hạnh, tâm sáng
suốt, mạng chung sống gần mặt trời và mặt trăng.
- Đao
Lợi Thiên: ít ái ân với vợ hoặc chồng và thường tịnh cư, tâm sáng suốt,
mạng chung vượt lên mặt trời và mặt trăng, ở trên chóp nhân gian.
- Tu
Diêm Ma Thiên: ít nhớ nghĩ việc ái ân, sống động ít, tĩnh nhiều, tâm sáng
suốt, sáng rỡ ở cõi hư không mà ánh sáng mặt trời và mặt trăng không soi
đến được.
- Đâu
suất đà thiên: lúc nào cũng tĩnh, nhưng khi có cảm xúc vẫn bị chi phối,
mạng chung sanh lên chỗ tinh vi, những hoại kiếp và tam tai của nhân thiên
cõi dưới không đến được.
- Lạc
biến hoá thiên: không còn ân ái dù có phải đáp ứng nhưng thấy vô vị như ăn
sáp. Mệnh chung sanh vào cảnh biến hóa.
- Tha
hóa tự tại: không có tâm thế gian, chỉ đồng với thế gian mà làm ngũ dục,
khởi tâm chán bỏ (chánh nhân khiến lên vô sắc giới). Mạng chung vượt lên
những cảnh biến hoá và không biến hoá.
Sáu cõi trời như thế hình
thức tuy khỏi động, nhưng tâm tính còn dính dấp ngũ dục. Từ các cõi trời ấy trở
xuống gọi là Dục giới.
Trong Nhị khoá hiệp giải
và Thắng pháp tập yếu luận nói rằng: tuổi thọ của cõi trời bằng mấy trăm ngàn
tỷ năm con người.
Cõi Lục Dục thiên này
cùng với loài người, súc, quỷ, địa ngục… là ở trong Dục giới.
II/ Sắc giới: các trời này thoát ly ngũ dục thường ở trong định, không
dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy hình hài nên gọi là sắc giới. Có
18 loài trời như:
- Trời
Phạm chúng
- Trời
Phạm Phụ
- Trời
Đại Phạm -> Sơ Thiền (ly sinh hỉ lạc địa)
- Trời
Thiểu Quang
- Trời
Vô Lượng
- Trời
Quang Âm ->Nhị Thiền (Định sinh hỉ lạc địa)
- Trời
Thiểu Tịnh
- Trời
Vô Lượng
- Trời
Biến Tịnh -> Tam Thiền (Ly hỉ diệu lạc địa)
- Trời
Phúc Sinh
- Trời
Phúc Ái
- Trời
Quảng Quả
- Trời
Vô Tưởng
- Trời
Vô Phiền
- Trời
Vô Nhiệt
- Trời
Thiện Kiến
- Trời
Thiện Hiện
- Trời
Sắc Cứu cánh -> Tứ thiền (Xả niệm thanh tịnh địa)
Theo dòng vận hành của
tâm, nếu xả bỏ tham sân si, mạn, tà kiến (10 triền, 10 sử) (2) thay vào đó cho
hiện khởi hỉ, định, lạc xả thì tùy khả năng tâm đạt, tùy sức mạnh điều ngự tâm
của mình mà có cảnh giới khác. Như pha ly cafê sữa vậy, tùy sữa nhiều hay ít mà
lạt màu.
III/ Trời Vô Sắc: không có sắc pháp ở trong và ngoài nên gọi vô sắc
- Trời
Không Vô Biên Xứ
- Trời
Thức Vô Biên Xứ
- Trời
Vô Sở Hữu Xứ
- Trời
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thắng Pháp Tập Yếu luận
cũng trình bày khá đặc biệt về kiết sanh thức hay kiết sanh tâm liên hệ giữa
đời này và đời sau của nhiều cảnh giới từ địa ngục cho đến cõi cao nhất của vô
sắc giới. Như kiết sanh thức có bốn loại:
- Ác
thú (địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh) kiết sanh thức
- Dục
giới thiên sanh thức
- Sắc
giới thiên sanh thức
- Vô
sắc giới thiên sanh thức.
Ở các cõi trời này do
phước báo nên y báo và chánh báo đều tốt hơn cõi người, nhưng phải biết sau một
thọ mạng dài lâu huởng vui, nghĩa là sáu căn bị gây mê tham luyến các dục (dục
giới), an hưởng trạng thái an lạc của thiền (sắc giới và vô sắc giới) trụ vào
tư thực (3) kéo dài mạng sống, số đông chết đều đọa ác thú. Nên chư Phật thường
thành đạo ở cõi người và khuyên đệ tử coi cõi trời là hiểm nạn chướng ngại sự
giải thoát, không nên cầu về.
2/ ĐẠO TIÊN
HAY CÕI TIÊN
Thật ra nói đủ là bảy
cõi. Sáu cõi cộng thêm cõi tiên.
Tiên là một loài chúng
sanh nửa trời và nửa người. Kinh Thủ Lăng Nghiêm (4) dạy có những chúng sanh từ
loài người, không tu theo giới định tuệ mà tu theo vọng niệm, vọng tưởng luân
hồi lưu chuyển để củng cố hình hài vào trong rừng núi, ăn trái cây sống, hoặc
trên đảo giữa bể, tâm tĩnh lặng luyện thân, không vướng vào những vinh nhục thế
gian, nên thành mười thứ tiên sống lâu ngàn vạn tuổi, nhưng cuối cùng rồi cũng chết,
vì không tránh được quy luật sống chết.
Ở đây cho thấy tư tưởng,
có thể thay đổi lối sống bình thường của con người, kéo dài sự sống đến một
thời gian rất lâu. Những phim chưởng của Trung Hoa, Đại hàn xuất phát từ nguồn
gốc đạo tiên này rất nhiều.
Có 10 loại tiên:
- Có
loại chúng sanh dùng đồ bổ không dừng nghỉ, kiên cố và đạo ăn thành tựu
thành Địa hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng cỏ cây không dừng nghỉ, kiên cố và đạo thuốc thành
tựu thành Phi hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng kim thạch không dừng nghỉ, kiên cố và hóa chất thành
tựu thành Du hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng luyện những động tác không dừng nghỉ, kiên cố và đạo
khí tinh thành tựu thành Không hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng nước bọt không dừng nghỉ, kiên cố và đạo nhuận
đức thành tựu thành Thiên hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng tinh hoa không dừng nghỉ, kiên cố và đạo hấp thụ
thành tựu thành Thông hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng phù chú không dừng nghỉ, kiên cố và đạo thuật
pháp thành tựu thành Đạo hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng chú tâm chuyên niệm không dừng nghỉ, kiên cố và đạo
chuyên niệm thành tựu thành Chiếu hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng quán về thủy hoả giao cấu không dừng nghỉ, kiên cố và
đạo cảm ứng thành tựu thành Tinh hành tiên.
- Có
loại chúng sanh dùng tập luyện biến hoá không dừng nghỉ, kiên cố và đạo
biến hoá thành tựu thành Tuyệt hành tiên.
3/ A-TU-LA
Đây cũng là một loại có
phước nhưng hay tranh chấp. Anh hùng nghĩa khí có làm nhiều phước thiện mà hay
tranh đấu sát phạt nhau, hơn thua lẫn nhau, lấy nghĩa khí thắng hung tàn, không
khuất phục, đấu tranh không ngừng nghỉ… những loại chủng tử đó sẽ sanh về cõi
đây.
Có bốn loại
a-tu-la:
1. Có chúa a-tu-la trời,
biến hoá sanh (thuộc loài trời), sức mạnh, tranh quyền với Đế thích và Tứ thiên
vương, nên trong tranh vẽ các vị này tối ngày cầm cung, súng sát phạt lẫn nhau.
2. A-tu-la người (thuộc
người), thai sanh, ở gần mặt trời, mặt trăng. Từ trời đọa xuống vì do kém
phước đức.
3. A-tu-la quỷ (thuộc quỷ
ở trời), từ trứng sanh ra. Sống ở hư không. Có vị phát tâm bảo hộ chánh pháp.
Nên cuối mỗi buổi tụng kinh, ở chùa hay tán bài:
“Trời, A-tu-la, Dạ xoa thảy
Đến nghe pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu người nghe đến chốn này
Hoặc trên đất liền hoặc hư không
Thường với người đời sanh lòng từ
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Nguyện các thế giới thường an ổn
Phước trí vô biên lợi quần sanh
Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng
Thường trì định phục để giúp thân
Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Nam mô Tam châu cảm ứng
Hộ Pháp Vi đà Tôn Thiên Bồ Tát ma ha tát.”
Đến nghe pháp đó nên chí tâm
Ủng hộ Phật pháp khiến thường còn
Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu người nghe đến chốn này
Hoặc trên đất liền hoặc hư không
Thường với người đời sanh lòng từ
Ngày đêm tự mình nương pháp ở.
Nguyện các thế giới thường an ổn
Phước trí vô biên lợi quần sanh
Bao nhiêu tội chướng thảy tiêu trừ
Xa lìa các khổ về viên tịch.
Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng
Thường trì định phục để giúp thân
Hoa mầu bồ đề khắp trang nghiêm
Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Hộ Pháp Vi đà Tôn Thiên Bồ Tát ma ha tát.”
4. A-tu-la bàng sanh
(thuộc bàng sanh), nhân thấp khí sanh ra, ở trong biển lớn lặn trong thủy
huyệt. Ngày đi chơi trong hư không, đêm ngủ dưới nước.
4/ CÕI NGƯỜI
Trên hành tinh trái đất
này chúng ta có năm châu là Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi, Nam và
Bắc cực.
Đức Phật đã bảo ngài Mục
Kiền Liên minh hoạ bức tranh của kiếp người có tám khổ như sanh, lão, bịnh, tử,
ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thịnh. Nào là có
cảnh chiến tranh, xe tăng, súng đạn, có nạn lũ lụt, cháy nhà, lũ lụt, cảnh em
ra đời, lớn lên, nằm ở giường bịnh, già yếu chống gậy và quan tài chờ đợi.
Khi tinh trùng của người
cha kết hợp với tiểu noãn của người mẹ, thần thức gá vào và lúc đó bắt đầu một
kiếp sống mới. Và tùy theo nghiệp lực của mình mà tinh trùng hay trứng đó là
của loài người hay loài thú.
Cũng như loài vật, con
người sanh từ bụng mẹ (bụng của con người). Chỗ sanh bất tịnh là tử cung, cạnh
vòng ruột già non, trong máu tanh, nước nhớt và vừa là thức ăn. Đây là nơi bắt
đầu thành thân, thật chẳng đáng tự hào chút nào!
Đức Phật dạy sắc thân
chúng ta từ bất tịnh nghiệp đời trước mà sanh. Nghiệp chuyển nơi thức đem vào
thai mẹ và có năm trùng không tịnh. Năm trùng không tịnh là:
- Chỗ
sanh bất tịnh: thân này chẳng phải hoa sen, chiên đàn, mà được nuôi lớn
trong máu mủ. Ở bên cạnh phân uế từ đường tiểu tiện dơ dáy mà ra.
- Chủng
tử bất tịnh: vơ hai giọt tinh cha, huyết mẹ làm thể chất.
- Tướng
bất tịnh: Thân này không gì ngoài chín lỗ ( hai lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng,
tai…) và 32 thể trược (tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận,
tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân,
mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng,
nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu).
- Tánh
bất tịnh: Từ dâm dục uế nghiệp mà sanh, lấy ái dục làm thể chất. Nếu không
tu các pháp quán để cải biến thì lấy hết nước biển cả để rửa cũng không
thể sạch.
- Cứu
cánh bất tịnh: Nghiệp tận mệng chung có chín tướng đáng chán hiện ra gọi
là cửu tưởng:
- Trướng
tưởng (sau khi tắt hơi rồi, không còn thức thứ tám trì giữ mạng căn nên
thi thể bắt đầu phồng lên)
- Thanh
tưởng (rồi xanh tái đen)
- Hoại
tưởng (da thịt bắt đầu bở toét như bánh mì nhúng nước nứt nở và mềm bủng
ra)
- Huyết
đồ tưởng (các thứ nước, máu mủ trong thân chảy ra)
- Nồng
lãng tưởng (thi thể nát bét rồi, nên mùi hôi thối xông ra)
- Hám
tưởng (da thịt rục rã)
- Tán tưởng
(thịt tan, còn xương)
- Cốt
tường (xương cũng mòn dần)
- Thiêu
tưởng (tro bụi của xương cũng tan theo hư không và không còn để lại dấu
vết gì)
Chúng ta có năm trùng bất
tịnh đó nhưng chui ra thai mẹ lại quên hết. Ra đời chỉ biết khóc, rồi lớn lên
bao nhiêu bất tịnh khổ sở của thân cũng quên hết, tranh đấu cực nhọc cho cuộc
sống để rồi chuẩn bị đi đến già bịnh. Thân bằng cơm gạo rốt cuộc trả về cho
đất, chết là dấu chấm cuối cùng. Nhưng chúng ta không phải làm dấu chấm, hay
chấm phẩy mà là dấu phảy liền. Vì đâu đã hết liền, đâu phải chết là hết. Tinh
thần lại mê muội lại đi đầu thai, lại vào bào thai, để lại ở bụng mẹ ra gọi là
sanh, rồi bỏ vào quan tài gọi là tử; hoặc vào trứng gà, bụng cá… gọi mình là
gà, cá. Khi ở địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, khi ở cõi trời, cõi người, cứ thế
xoay vần trong ba vòng ‘Hoặc - Nghiệp - Khổ’, xoay vần sanh tử luân hồi như đã
từng trải qua từ lịch kiếp.
Chúng ta thường ở trong
tam đồ, bát nạn từ lịch kiếp. Tam đồ là: địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh. Bát
nạn là:
- Nạn
trời vô tưởng (vì sống lâu mà không gặp Phật)
- Bắc
câu lư châu: Phiá bắc của núi tu-di. Giữ thập thiện được an vui, nhưng
không chịu khó tu học nên chẳng gặp Phật.
- Nạn
sanh trước và sau Phật: Phật trước đã qua. Phật Di lặc lại chưa đến. Lại ở
chỗ chẳng có Phật nào truyền bá.
- Nạn
thế trí biện thông: Tâm trí lanh lợi, chỉ ưa đắm kinh sách ngoại đạo,
ngoại điển, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Thế là bị chướng nạn đối với
Phật pháp.
- Nạn
si, lung, âm và á: điếc, đui, câm và ngọng.
- Súc
sanh
- Ngạ
quỷ
- Địa
ngục.
Tập quan sát chúng ta
đang ở trong những nạn và những báo chướng bất tịnh như thế. Tập quan sát sự
thật và biết thân phận chúng ta như thế để tránh không bị ảo kiến đánh lừa
(kiến trược). Lo luyện tâm, khôi phục quyền tự chủ, để kiến tạo đạo nghiệp.
Cũng đồng nghiệp làm kiếp
người, nhưng có nhiều biệt nghiệp riêng. Có chúng sanh bần tiện, cao sang, xinh
đẹp, xấu xí và may mắn, bất hạnh… đều do hạnh nghiệp chánh kiến hay tà kiến,
thiện hạnh hay ác hạnh ở thân, miệng và ý. Trong Tăng chi bộ kinh, Đức Phật dạy
Mạt Lợi, hoàng hậu của vua Ba Tư Nặc rằng:
Này Mạt Lợi phu nhân! kẻ
hay phẫn nộ, hễ trái tai gai mắt liền nổi nóng sừng sộ gây sự sẽ tái sanh với
hình dung xấu xí. Hiện tại keo kiệt không bố thí, mai sau chịu nghèo khổ túng
thiếu.
Thấy ai được lợi dưỡng
cung kính hơn mình, thì tức tối ganh tị, cảm quả báo làm người hèn hạ, không uy
tín.
Này Mạt Lợi phu nhân! nếu
người hay bất mãn phẫn nộ nhưng chăm bố thí thì tái sanh tuy dung sắc xấu mà
giàu sang.
Những ai tâm từ hoà lại
chăm bố thí, không ganh tị tật đố sẽ tái sanh dung sắc thù thắng, giàu sang và
có uy tín lớn.
Này Mạt Lợi, bố thí đem
phước báu thế gian. Quả báo đến có hai cách. Có người phải bôn ba mới kiếm ra
tài vật (do người đến xin, cầu khẩn mình mới bố thí hay giúp đỡ). Có người ngồi
mát ăn bát vàng (vì xưa kia đã tận tình đích thân đi tìm những khổ nạn để cứu
vớt, không phải đợi người đến tận nơi cầu xin mới giúp). Người có tâm vị tha
luôn nghĩ đến nhu cầu của xung quanh, mong giải quyết hộ. Những người này đời
sau mơ ước điều gì đều như ý. Như vậy, tuy đồng nghiệp là người nhưng theo biệt
nghiệp từng người mà có khác. Đây là những nhân quả sai biệt của loài chúng
sanh gọi là con người.
Đây là những việc làm bố
thí của trời người, hưởng phước của trời người, nhưng nếu bố thí có trí tuệ Bát
Nhã, quán tam luân không tịch (5) sẽ chuyển phước này thành bồ tát hạnh, để
viên mãn biển phước trang nghiêm của tuệ giác.
Cũng trong Tăng Chi Bộ
kinh, Đức Phật giảng lý nhân quả cho ngài Xá Lợi Phất rằng nếu chúng ta hứa hẹn
với ai một điều gì mà không giữ thì mai sau sẽ bị thất vọng. Nếu đúng như lời
hứa thì mai sau sự nghiệp sẽ thành tựu như ý. Nếu mình bố thí nhiều hơn lời
mình đã hứa thì quả báo khó nghĩ bàn. Hứa là tạo niềm hy vọng. Thất hứa là đem
thất vọng nên quả báo sẽ bị tuyệt vọng.
Thọ giới là hứa với tam
bảo ban cho chúng sanh nơi nương tựa, niềm an ủi. Nếu chúng ta thất hứa thì hậu
quả sẽ vô cùng nặng nề. Ngược lại hẳn công đức vô biên.
Trước kia chúng ta có thể
là người có nhân cách kém cỏi. Bản ngã chúng ta thường phình to cho đây là ta,
của ta, tôn giáo ta, chùa của ta, Phật tử của ta; kia là tôn giáo khác, người
khác… rồi không có cái ta nào chịu thua cái ta nào. Như thế là tạo sự phân hoá,
chia rẽ cộng động và thù ghét lẫn nhau. Nếu giờ biết thoát khỏi sự kềm tỏa của
bản ngã thì chúng ta trở nên cao thượng, độ lượng. Trước kia nhỏ mọn ích kỷ,
bây giờ rộng rãi, bố thí, dễ tha thứ hơn. Trước kia hay nổi nóng và bây giờ thì
dễ trầm tĩnh hơn. Trước kia hay xúc động và bây giờ thì dễ bình thản hơn. Từ
đây tâm từ bi của chúng ta được tăng trưởng, xem nhẹ của cải vật chất và biết
quý trọng những giá trị tinh thần. Những vị biết tự điều như thế này thường
sống thuận theo ý kiến của mọi người, giống như lời bày tỏ của tôn giả
A-nậu-lâu-đà: “Con không sống bằng tâm của con mà con sống bằng tâm của huynh
đệ”.
Đây cũng chứng minh hệ
quả của văn minh nhân loại. Khi tư duy chúng ta càng phát triển cao hơn, lý trí
dần dần vượt khỏi sự kềm toả của bản ngã và nhận ra sự đồng thể tướng và tánh
chung của tất cả, nên lấy vạn pháp làm mình, lấy tâm huynh đệ, tâm chúng sanh
làm tâm mình ‘vạn pháp duy tâm’.
Thân ta có tướng cứng là
địa đại, thẩm ướt là thuỷ đại, hơi ấm là hoả đại và lay động là phong đại. Do
bốn cái này ràng buộc mà chia cái tâm tính diệu minh vắng lặng cùng khắp (Phật
tánh bản lai) của chúng ta thành hạn định trong cái thấy nghe hay biết. Xét từ
đầu đến đuôi tạo thành năm thứ ô trược, nghĩa là loài người chúng ta bị buộc
trong năm lớp vô minh này:
1) Hiện đang ở trong kiếp
trược, quyết định đang bị vô lượng khổ áp bức.
2) Kiến trược là đang bị cái xảo trá chỉ huy.
3) Phiền não trược là tham dục, sân hận các thứ tâm độc kích thích.
4) Chúng sanh trược là cứ cam phận sống đắng cay, chết đọa đày, không bao giờ ngờ rằng mình có đường lối thoát ly, thoát khổ, vì bản tánh mình vốn tự chân thường, chân lạc, chân ngã và chân tịnh.
5) Mạng trược là bị ma lực vô thường như lửa cháy bốn bên mà cứ rong chơi nô đùa, đâu có tỉnh ngộ.
2) Kiến trược là đang bị cái xảo trá chỉ huy.
3) Phiền não trược là tham dục, sân hận các thứ tâm độc kích thích.
4) Chúng sanh trược là cứ cam phận sống đắng cay, chết đọa đày, không bao giờ ngờ rằng mình có đường lối thoát ly, thoát khổ, vì bản tánh mình vốn tự chân thường, chân lạc, chân ngã và chân tịnh.
5) Mạng trược là bị ma lực vô thường như lửa cháy bốn bên mà cứ rong chơi nô đùa, đâu có tỉnh ngộ.
Chúng ta không biết rằng
dầu cõi người đang bị năm trược bao phủ nhưng trong sáu cõi hay bảy cõi thú chỉ
có lòai người mới có thể ra được vòng lửa sanh tử nghĩa là có duyên nghe Phật
pháp, hiểu và biết phương pháp để đi ra khỏi nhà lửa, trong khi cõi trời thì bị
gây mê hưởng phước nên không có lo tu; còn các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
thì đau khổ quá không có tinh thần đâu để hiểu và để tu. Thế nên, trên bức
tranh ta thấy lửa đỏ bao phủ xung quanh không có lối thoát, nhưng nhìn kỹ sẽ
thấy một đường đi nhỏ như sợi chỉ trắng nhỏ từ vòng nghiệp, có bốn chúng cầm
đèn đi lên ngang qua cõi người và thoát ra khỏi bánh xe lửa đỏ. Trong khi năm
cõi khác hoàn toàn kín mít chìm trong lửa.
5/ BÀNG SANH
Súc sanh là một trong
những loài chúng sanh trú trong vũ trụ bao la này. Có nhiều loại súc sanh như:
A. Loài có xương sống:
1. Bốn chân: Bò, trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, bò tót mọc sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, ròng rọc, đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó, chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoang, rái nước, heo rừng, tê giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chằng hiu…
2. Hai chân: Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim…
3. Không chân: Rắn, trăn, trùng, giun, lăng quăn, dòi, sâu, lải…
1. Bốn chân: Bò, trâu, sư tử, gấu, voi, hươu, nai, bò tót mọc sừng, lừa, lạc đà, khỉ, vượn, ròng rọc, đười ươi, cọp, beo, báo, sói, thỏ, mang (con đỏ), nhím, chồn, cáo, ngựa, heo, dê, mèo, chó, chuột, tắc kè, thằn lằn, kỳ nhông, thạch sùng, rắn mối, kỳ đà, hoang, rái nước, heo rừng, tê giác, trâu nước, nhái, cóc, ếch, chằng hiu…
2. Hai chân: Gà, vịt, ngỗng, ngan, chim…
3. Không chân: Rắn, trăn, trùng, giun, lăng quăn, dòi, sâu, lải…
B. Loài không xương sống:
Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, gián, mối, sùng, bò cạp, chấy, rận, ve sầu, tằm, giun, nhộng, ong, tò vò, phù du, mọt, rệp…
Cuốn chiếu, bọ chét, rết, nhện, sâu, bọ nẹt, kiến, gián, mối, sùng, bò cạp, chấy, rận, ve sầu, tằm, giun, nhộng, ong, tò vò, phù du, mọt, rệp…
C. Loài không xương sống có cánh:
Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù xoè, châu chấu, cào cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẽ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ hung…
Bướm, chuồn chuồn, đom đóm, bù xoè, châu chấu, cào cào, muỗm, bọ ngựa, ong, mối, nắc nẽ, dế, ve sầu, muỗi, ruồi, rầy, thiêu thân, cánh cam, bọ hung…
D. Loài dưới nước:
Cá, sứa, mực, cua, sò, tôm…
Cá, sứa, mực, cua, sò, tôm…
Giới Bồ tát dạy chúng ta
mỗi khi gặp một loài thú nào cũng nên quy y và chúc nguyện cho chúng.
Nguyện tình thương của
chúng ta lan toả đến các loài bàng sanh đang có mặt trên khắp hành tinh này.
Nguyện chúng sớm bỏ thân
thú thành người gặp Tam Bảo (6) tu hành.
Chúng ta đọc tên từng
loài, quán tưởng những hình tướng khốn khổ của chúng với một tấm lòng tận thân
tâm thương xót chúng, ban rải tình thương đến chúng, kết thắng duyên Tam Bảo để
sau này chúng gặp được nhân duyên tam bảo mà tỉnh ra. Một con chim xinh xắn,
chúng ta vuốt ve yêu mến và đâu biết rằng sau chúm lông xanh, vàng, đỏ, tía đó
là chất chứa vô vàn đau đớn, khốn khổ chập chùng.
Trong vòng sanh tử vô tận
biết bao nhiêu lần chúng ta đã mang những lớp da thú này. Phải né, phải tránh,
không nên gieo những chủng tử gà, rắn, heo để đừng tái sanh vào cõi bàng sanh.
Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ.
Đức Phật dạy cái khổ ngu si là đáng sợ hơn cả. Ngu si là mê muội, không biết tránh ác làm lành để đến nỗi tự đọa đày, đọa vào thân thú, địa ngục và ngạ quỷ.
Tranh minh họa hình con
giun đang bị cắc kè cắn. Con rắn thì nuốt cắc kè. Con kên kên nuốt mồi rắn
ngon. Anh thợ săn đang ngắm bắn kên kên. Bức tranh của thế giới ỷ mạnh hiếp
yếu. Loài lớn ăn loài nhỏ. Sự sống ăn nuốt sát hại lẫn nhau vì bản năng duy trì
mạng sống của mình. Cảnh thú sống trong sợ hãi, hoảng hốt và hãi hùng vì đồng
loại thú và cả loài người luôn tìm cách giết lấy mạng chúng.
Trên cạn, ngựa kéo xe đói
khát, chở nặng, đi xa, roi vọt. Dưới nước, cá lớn nuốt cá bé. Trâu cày bừa sớm
chiều nắng mưa quần quật làm việc. Tối về chuồng là nơi chủ tích trữ phân và
nước tiểu của nó để bón ruộng. Suốt đêm trâu chịu các thứ muỗi mòng tấn công mà
nào có tay để xua đuổi. Sáng ra tiếp tục cày bừa dưới nắng mưa cực nhọc. Lỡ đau
ốm không làm việc được thì chủ vội vàng đem giết thịt bán để gỡ vốn. Một đời
như vậy liệu tinh thần có đi lên không? Một đời như vậy liệu chúng ta giảng
pháp, thú có hiểu không? Thế nên bàng sanh là một ổ phiền não, một ổ khổ và một
ổ đọa lạc.
Một khi đã đọa mang lớp
da thú thì trăm kiếp ngàn đời khó ngóc đầu ra. Muôn loài vạn vật, sống đọa đầy,
chết đắng cay. Một con bọ chét chạy trong người, ta không chịu được thế mà chó
mèo gà vịt ngày đêm hàng trăm bọ mạt rúc rỉa mà cứ phải chịu trọn đời, không
một lúc nào ân xá. Cho nên, chúng đọa lạc và chịu đầy đau khổ thương tâm lắm.
Thông thường tội nào nặng
lắm mới đọa làm thú. Dưới ánh mắt của con người thì loài thú không có nhiều giá
trị và xem như thuộc ‘đẳng cấp’ thấp so với loài người.
Thường thì con người dùng
thú vật có nhiều lý do như để làm thức ăn khoái khẩu cho người, thực hiện các
thí nghiệm khoa học hay phục vụ con người… Mặc dù thời gian gần đây ở các nước
tiên tiến có luật bảo vệ thú vật hoặc có luật bảo vệ các loài có nguy cơ tuyệt
chủng, nhưng nói chung, thú vật vẫn thuộc ‘đẳng cấp’ thấp kém so với loài
người.
Vì sao đọa mang thân thú?
Ai tạo những nghiệp bỉ ổi, thấp hèn, mất giá trị, mất nhân phẩm sẽ bị đọa làm
thú và ở thân thú này chúng bị coi thường và khinh rẻ.
Những nghiệp nào là hèn
hạ và mất nhân phẩm? đó là tà dâm, loạn luân, phá vỡ luân thường đạo lý loài
người, dục vọng không biết kềm chế, không có lý trí hướng dẫn, rõ ràng tương
đương với dục vọng của loài thú. Hạnh nghiệp giống với loài thú đưa tác giả đi
đến kiếp thú về sau. Hoặc lòng ích kỷ tột độ biến thành hành vi tranh giành xâu
xé đồng loại không thương tiếc cũng rất giống với loài thú; dùng thủ đoạn để
bức hại kẻ khác, sống cho bản năng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình thì sẽ đọa làm thú
là điều không tránh khỏi.
Kinh dạy: Nhất thiết duy
tâm tạo. Mang lông đội sừng hay thành Phật làm tổ cũng chỉ do tâm ta. Loài vật
cũng bẩm ngũ hành (7) , cũng ngậm tứ tượng (8) cũng biết đau ngứa, no đói, cũng
yêu ghét sợ hãi, nơm nớp sợ chết, lo lắng tham sống, tránh khổ cầu an như ta.
Vậy mà chúng ta nỡ nào ăn thịt nó, giết nó chỉ để ngon miệng trong chốc lát nơi
tấc lưỡi, nuốt xuống cuống họng là hết. Đặt mồi lập mưu, khiến sa lưới mắc bẫy,
thật là độc ác, tàn nhẫn. Lại nói ‘thiếu tiền của ta, làm thú trả ta’ hoặc ‘ta
hưởng lộc trời’ hoặc ‘vật dưỡng nhân’ ‘chết là hết, tha hồ ăn, không sợ gì’. Cứ
thế mà luân chuyển oán thù, cùng nhau đi mãi trên đường đau khổ.
Nhà nho nói: Thấy con thú
đương sống, chẳng nở thấy nó chết. Nghe tiếng nó sợ hãi kêu la, chẳng nỡ ăn
thịt. Cho nên đã là quân tử đâu có sát sanh. Nhà nho còn nói thế, huống chi
chúng ta là Phật tử, con nhà họ Thích.
Bởi vì tất cả đều có Phật
tánh, nên tất cả loài noãn, thai, thấp, hoá đều là chư Phật vị lai. Bởi vì cùng
nhau ở trong vòng luân hồi nên tất cả các loài bay, chạy, bơi, lội đều đã từng
là cha mẹ quyến thuộc lẫn nhau với ta. Phải có lòng tin bất động với điều này
thì chúng ta sẽ có sự chuyển đổi ở cách nhìn và cách sống.
Thấy mũi tên con vượn hồn
bay. Thấy giương cung con nai rơi mật. Nỗi chua cay nát óc bể đầu, niềm đau khổ
suốt lưng qua bụng. Dùng tim gan nó để ngon miệng mình trong khoảnh khắc. Mai
đây chịu rừng núi kiếm dao, cả trăm ngàn kiếp trong địa ngục. Còn dư báo lên
làm thân heo gà để chịu mổ đâm quay nướng, mang yên ngậm sắt ngựa lừa, tôi tớ
phận chó, cày bừa thân trâu…
Chúng ta cứ lấy thống khổ
làm trò vui chơi. Giết hại sinh linh thết khách bày tiệc mời người ăn. Con gà,
con heo, con trâu bị cắt cổ giãy giụa kêu la, lại đem thêm nước sôi dội xối;
trong khi trên thềm nhóm họp bạn bè, dưới thềm âm nhạc vui vầy đờn ca, bàn
chuyện thị phi thiên hạ. Đình thần đền miếu đều là những đàn tràng gây oán.
Thui ngan, nướng vịt, mổ heo, thịt dê khác gì quỷ la-sát, dạ-xoa…
Phải 500 con tằm mất mạng
mới thành một chiếc khăn. Mấy chục con thỏ chết mới có chiếc áo ấm. Người có
tâm hãy suy nghĩ, nỡ nào an lòng mặc dùng. Chúng ta cứ ăn thịt mà không biết
nỗi đau của một con vật bị giết hay bị đưa lên lò sát. Xin được kể một câu
chuyện minh hoạ rằng:
Có một anh thanh niên nọ
có thói quen săn thú. Một hôm rượt đuổi theo dấu máu của con nai bị trúng tên,
cuối cùng anh thấy nai nằm thở thoi thóp dưới chân một nhà ẩn sĩ đang toạ thiền
trên tảng đá. Nhà ẩn sĩ khuyên anh nên bỏ thú vui này vì hãy thương nổi đau đớn
của nai khi trúng tên như nỗi đau của mình. Anh đứng im lặng.
Nhà ẩn sĩ liền dùng ngón
tay của ngài ấn vào mình con nai đã chết, còn tay kia nắm lấy tay của chàng thợ
săn, truyền nỗi thống khổ của con nai lúc chết cho chàng. Vừa đụng vào thì anh
biến sắc, anh như cảm nhận được nổi đau khổ về thể xác và tâm linh của con nai
lúc chết. Anh như thể nghiệm được toàn bộ quá trình cái chết của con nai, toàn
thân toát mồ hôi lạnh, nhịp tim dần dần ngưng lại. Anh đau đớn và hiểu được săn
bắn là một hành động ngu xuẩn, từ đó anh không dám săn bắn nữa.
Nhân có nhân quyền, còn
thú? Khi văn minh nhân loại tiến bộ, khi tư duy con người phát triển cao hơn,
khi thế giới tâm linh con người phát huy tuyệt đối đến mức cao nhất, ta và
chúng sanh bình đẳng, lý trí dần dần vượt khỏi sự kềm tỏa của bản ngã, sẽ thấy
tha và tự giống nhau và ngay cả thú cũng bình đẳng, thì lúc đó hy vọng thú cũng
được tôn trọng, thương yêu và đối xử như con người.
Có chuyện kể một bà già
Tây Tạng sau khi trải qua bão tuyết mấy ngày trời liên tục, nhà đã hết lương
khô, bà chống gậy lần xuống núi để mua thực phẩm. Dọc sườn núi, các nông trại,
vườn rau, đồng lúa đều một màu trắng lạnh tang tóc không có sức sống. Quá đói
và mệt, bà ngồi xuống tảng băng để nghỉ chân và lôi trong giỏ khúc bánh mì khô
cuối cùng ra để gặm. Chợt ngó lên, bà thấy một con chó đói đang lết thết bò đến
gần bà. Nó lạnh run lập cập, lông của nó không đủ cho nó ấm. Bao tử của nó xẹp
lép ôm lấy xương sườn vì quá đói, ai đâu cho nó ăn? Bà vội cởi bớt một tấm vải
choàng cũ trùm nó lại và khúc bánh mì, bà bẻ hai, chia đều để trước mặt nó một
phần, bà một phần. Rồi cả bà và nó cùng nhau mỉm cười ăn ngon lành.
Câu chuyện chỉ đơn giản
như vậy. Nhưng để lại ý nghĩa thật sâu sắc. Bà già cũng đã thấy được mình và
chó bình đẳng như nhau, nên dù đang đói, khúc bánh mì cũng sẵn sàng chia đôi,
manh áo sẵn sàng bớt một cái. Nếu như tâm lý bình thường của mình, có thể chúng
ta cho vị trí của chó là thấp kém, nên nếu có thương, cho nó ăn thì ta chỉ bẻ
khúc đuôi và bẻ một ít thôi vì để dành còn ngày mai mình ăn nữa chứ… Vì thế
lòng từ chúng ta có giới hạn.
Luật Sa-di kể chuyện rằng
có một tam tạng pháp sư lên chánh điện, thấy một lão tăng tụng kinh, liền nói
đùa: “Sư tụng kinh giọng ồ ề như chó sủa”. Vì lời khinh mạn bông đùa ấy, vị sư
phải chịu 500 đời làm thân chó. Đời cuối cùng, con chó ăn vụng thịt, bị chủ
chặt cả bốn chân, vứt xuống hố.
Ngài Xá Lợi Phất đi qua
cho chó ăn cơm, thuyết pháp và chúc nguyện. Con chó chết, đầu thai làm con một
trưởng giả tên Quân Đề. Quân Đề mới lên bảy tuổi đang chơi ngoài cửa, thấy Xá
lợi phất khất thực đi qua liền xin cha cho xuất gia. Sau khi xuất gia, dưới sự
hướng dẫn của tôn giả Xá lợi phất, Quân Đề đã chứng A la hán.
Thế đó, một lời nói bông
đùa mà nguy hại phải 500 đời làm chó. Nếu không phải là tam tạng pháp sư có
công phu tu hành thì làm sao gặp được thánh tăng để chấm dứt con đường đọa lạc.
Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức sẽ khổ mãi không cùng.
Kinh Địa tạng dạy: Chúng sanh trong cõi diêm phù, cất chân dấy niệm đã phạm tội. Gặp việc thiện thì dễ thoái tâm. Gặp ác duyên lại càng thêm mạnh. Nếu không gặp thiện tri thức sẽ khổ mãi không cùng.
Tóm lại, từ chỗ bản lai
thanh tịnh, một niệm bất giác sinh sở năng mà có y báo, chánh báo, có sinh vật
xuất hiện, rồi sau đó động vật chính thức ra đời có tâm thức phức tạp, có tạo
nghiệp nhân để thọ quả báo.
Ai đã làm thành động vật
có tâm thức để cho động vật đó phải lăn lóc đấu tranh vì sự sống một cách cực
khổ? Chính những tâm thức của chúng ta tạo ra.
Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện), khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc đẩy chúng trôi lăn trong luân hồi mai sau.
Trong sự đấu tranh sinh tồn đó, các động vật khi thì giúp đỡ lẫn nhau (thiện), khi thì xâu xé lẫn nhau (ác) để tạo thành vô số nghiệp thiện ác lẫn lộn thúc đẩy chúng trôi lăn trong luân hồi mai sau.
6/ NGẠ QUỶ
Ngạ quỷ cũng là một trong
vô số các loài chúng sanh trong vũ trụ này. Loài chúng sanh này có sự thọ dụng
cảnh giới thuần khổ và bị đói khát liên tục. Nguyên nhân căn bản là do những
chúng sanh này khi sanh tiền tâm chứa đầy những ý niệm tham lam, bỏn xẻn, không
thích làm những việc lành, bố thí, cúng dường, sau khi chết đọa vào cảnh giới
ngạ quỷ.
Quỷ thường chịu hai báo
chướng:
1) Nội chướng: Cổ như cây
kim, miệng như ngọn đuốc, bụng to như cái trống và toàn lửa, rất khó uống ăn.
Đây là quả báo của những tâm hồn khô khan, bỏn sẻn không biết bố thí. Có quỷ ăn
được nhưng thức ăn vào bụng liền biến thành gươm đao, đâm lại vào da thịt mình.
Đây là vì đã bố thí với độc tâm hoặc ác khẩu.
Buổi chiều là giờ ăn của
quỷ, (9) nên trong chùa khuyên tránh ăn chiều tối. Nếu có ăn thì xem đó như
dược thực (thuốc để chữa bịnh đói khát, khô gầy) và tránh đừng khua đũa bát
khiến quỷ thấy sự ăn uống, vì thèm khát miệng phực ra lửa.
Như ngài Mục Kiền Liên
dâng cơm cho mẹ. Bà Thanh Đề đói quá, một tay bốc ăn, một tay che, sợ quỷ khác
giành ăn. Nhưng cơm vừa đưa đến miệng liền hoá than hồng. Bà đói khát cùng cực
mà không thể thọ dụng thức ăn được.
2) Ngoại chướng: Quỷ ở
trong cảnh lửa hoặc máu mủ, bị dao đâm gậy đánh liên tục. Dòng sông đối với quỷ
nếu không là máu mủ thì cũng khô cạn toàn là cát nóng. Có ngạ quỷ ở trong sông
nước cả ngàn năm mà không sao hớp được một ngụm cho đỡ khát, chỉ thấy toàn sạn
cát nóng. Cảnh trăng thanh gió mát thì do nghiệp báo quỷ thấy thành mặt trời
nóng bức và ngược lại. Cây trĩu đầy quả thì thấy khô cằn héo hon không có trái
nào và ngược lại.
Quỷ có bốn loại:
1/ Có phước: nên được ăn
uống nhiều: a) Có thế lực lớn, cung điện trang nghiêm; b) Trông mong thờ cúng,
đi trên hư không hoặc ở nhà xưa của mình hoặc ở mộ địa được bà con cúng (vì
trước có bố thí); c) Ăn đờm dãi, phân uế và các thứ thiu thối.
2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.
3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.
2/ Ít phước: được ăn chút ít: a) Lông kim: tự đâm, đâm thân mình, đau đớn cuồng chạy, lâu lắm mới được ăn chút nhơ bẩn; b) Lông thối: Cào vốc nhổ lông vì mùi hôi thối khiến rách da xé thịt, đau đớn ngày đêm, lâu lâu mới được ăn chút nhơ bẩn; c) Bướu lớn: Nhức nhối, chảy mủ máu hôi thối, bốc lấy ăn cho đỡ đói.
3/ Không phước: Chẳng được ăn uống, đói khát cuồng chạy: a) Miệng thối; b) Toàn thân là lửa như cây đuốc; c) Họng kim, bụng lớn như cái núi.
Có rất nhiều quỷ như:
- Quỷ
bị vạc nước sôi nung nấu (làm nghề sát sanh hoặc có nợ không trả mà còn
chống cự)
- Miệng
nhỏ như trôn kim
- Ăn
đồ mửa
- Ăn
phân
- Ăn
lửa
- Ăn
hơi
- Ăn
pháp (xưa kia nói pháp cầu lợi, nay đói khát, chỉ nhờ nghe pháp mà mạng
được tồn tại)
- Khô
khan thèm nước uống
- Hy
vọng trông mong bà con cúng vái (buôn bán dối trá lấy vật của người)
- Ăn
đồ khạc nhổ (đã đem đồ bất tịnh cúng tăng)
- Ăn
tràng hoa (đã ăn trộm hoa của tam bảo)
- Ăn
máu (hay sát sanh)
- Ăn
thịt
- Ăn
nhang (hay ngửi và trộm nhang của chùa)
- Đi
nhanh, lửa cháy đốt thân
- Mỗi
lông trong mình đều tuôn lửa
- Hắc
ám: ở chỗ tối tăm có rắn cắn mổ (xưa kia vì mưu cầu tiền bạc mà vu oan)
- Đại
lực thần thông nhưng chịu nhiều khổ não (ăn trộm của người này, đem cho
người khác)
- Lúc
nào cũng có cảm giác bị phừng cháy (giết người, cướp của)
- Rình
con nít đại tiện, tiểu tiện để ăn hơi khí bất tịnh
- Dâm
dục (quyến rũ người làm việc này để lấy tiền sinh lợi như tú bà tức chủ
chứa gái)
- Ở
cồn biển (do lừa gạt người bịnh lấy tiền)
- Cầm
gậy hầu (làm quan nịnh vua tạo ác)
- Ăn
thịt con nít
- Ăn
tinh khí người
- La
sát (sát sanh)
- Ăn
lửa (tham ăn vật của tăng và Tam Bảo)
- Ở
các đường hẻm ăn đồ bất tịnh
- Ăn
gió (ưa hứa xuông, rồi không làm)
- Ăn
than (hành hạ tội nhân không cho ăn uống)
- Ăn
chất độc
- Ở
cánh đồng
- Ăn
tro nóng, chỗ thiêu thây người chết
- Ở
dưới gốc cây (người trồng cây để bố thí, mình ác tâm chặt đi)
- Ở
các nẻo đường giao thông (bóc lột khách đi đường)
- Mara:
Ma quỷ phá hoại người tu hành
Trong Ngạ Quỷ sự (kinh
Petakhatha) liệt kê tên và hình tướng của các quỷ như:
- Atthisankhalika:
Chỉ có bộ xương bay trong hư không khóc la thảm thiết, chim đuổi theo mổ
vào những kẽ xương
- Mainsapesi:
Quỷ hình như khối thịt bị chim mổ xẻ (sát sanh làm kế sanh nhai)
- Mainsapinda:
Quỷ hình như cục thịt (lúc sống làm thợ săn)
- Vicchavi:
thịt đỏ trùng rúc rỉa
- Asloma:
Lông như lưỡi dao nhọn bay lên, bay xuống đâm vào thân
- Sattiloma:
Lưỡi kiếm bay lên, bay xuống đâm vào thân
- Usuloma:
Mũi tên lên xuống
- Suciloma:
kim lên xuống (đã dùng sắt nhọn đâm thúc ngựa, bò, trâu chạy nhanh)
- Cumbhanda:
Ngọc hành thật to không ngồi được, cứ phải đi, chim mổ rỉa (xử oan người
để đòi hối lộ)
- Gidhakhadi:
Ăn ở trong phân (đem đồ bất tịnh cúng dường tăng ni)
- Okilini:
Than nóng xối thân
- Ansakabandha:
Quỷ không đầu, mắt mũi miệng ở giữa ngực (làm nghề đao phủ)
- Pabbazila:
thân lửa (xuất gia phá giới)
Những quỷ kể trên đã phải
trả quả trong địa ngục, nay chịu dư báo trong 10 kiếp đến 500 kiếp. Trai tăng
hồi hướng phước báo có thể siêu thoát.
- Vantasa:
Lông tóc xồm xoàm, chân tay cong queo, bụng to phềnh, răng lởm chởm, chân
hôi thối, ghẻ lở, ăn đồ khạc nhổ, ở chỗ dơ bẩn (do xả bẩn, nhổ bẩn trên
nền chùa).
- Xumpa:
Bụng phệ, mắt to bằng cái chén, răng bằng lưỡi cuốc, tóc phết gót, đầu to
hơn thân, hôi thối tanh nồng, ăn ròng máu mủ và tử thi, nhưng càng ăn càng
đói (cúng dường những thứ cấm cho người tu).
- Gutha:
Ở gần cầu tiêu, ăn phân máu (xấc xược với người tu, bỏn xẻn với cha mẹ).
- Aggisala:
Thân lửa bốc khói, đói khát mà không thể chết (khinh báng tăng ni).
- Sucimlbkha:
Miệng nhỏ dài nhọn như cây kim, thân to lớn, trọn đời đói khát ở rừng sâu
(keo rít để cha mẹ đói khát hoặc đến phá hoa, lá, vườn ruộng nhà chùa).
- Xanhaji:
Uống thì nước hoá lửa, ăn thì món ăn thành lửa.
- Nijjha:
Miệng mọc đuôi dài hôi thối, chẳng bao giờ ăn uống (ác khẩu với tăng ni,
chế giễu người tàn tật, ly gián người giới hạnh).
- Sabbanka:
Mình đầy ghẻ lở, ruồi nhặng bu khắp. Đói quá lấy móng tay nhọn như dao tự
móc thịt ăn. Vừa ăn, vừa khóc, càng ăn càng đói. Loài quỷ này rất nhiều ở
các thung lũng, núi non và cồn bãi. (bất hiếu cha mẹ, phản bội ân nhân).
- Pappanka:
thịt cứng như đất, lửa cháy đỏ, đói khát cả triệu năm ở trên (chửi oan
người đức hạnh)
- Ajagara:
Thân dài như con trăn, mình lớn bằng con voi, nhiều đầu… khắp mình lửa
cháy, đói khát trường kỳ, ngày đêm kêu khóc. Ở núi rừng cồn bãi có rất
nhiều loài này (hung dữ mắng chửi cha mẹ và những bậc đức hạnh).
- Vemanika:
Nửa tháng thọ vui như cõi trời. Nửa tháng thọ khổ như ở địa ngục tra khảo
chúng sanh. Đói khát đau khổ vô cùng (si mê nên ai rủ làm ác thì làm ác.
Ai rủ làm phước thì làm phước).
- Mahiddhika:
Thân đẹp như Thiên Tử thần thông, có thần thông bay trong hư không, y phục
toàn ngọc báu nhưng thân thể hôi thối, đói khát cả vạn năm. Món ăn cứ đặt
vào miệng liền biến thành sắt nóng nung đỏ, cháy xém mồm miệng ruột gan
(xuất gia, tà mạng, cầu danh lợi, phá giới).
- Ahi:
Mình rắn đầu người. Lớn như trái núi, giãy dụa khóc la, sống lâu trong
rừng núi (sân giận phá chùa am)
- Nimygga:
Cứ phải cắm đầu xuống hầm phân, ăn đầy bụng mới trồi lên được, rồi lại cắm
đầu xuống cứ thế trọn đời (tà dâm để thống khổ cho vợ con. Tội ở địa ngục,
nay là dư báo).
- Sukara:
Đầu heo, miệng lở thối (ác khẩu).
- Manguhi:
Lác, cùi, hôi thối, trôi nổi trong hư không, diều hâu mổ cắn (mưu mô bóc
lột người).
- Chataka:
Không quần áo, không ăn uống, sống lâu 90 kiếp. Giống quỷ này rất đông (do
khi sống không kính ngôi Tam Bảo).
- Surruta:
Ban ngày cầm buá đập nhau bể sọ, sưng nát mình mẩy. ban đêm lửa cháy toàn
thân. Đến sáng lửa tắt, lại cầm búa đập nhau. (buông lung uống rượu, chơi
chọi trâu, chọi gà…).
Từ Bi Sám Pháp dạy:
- Mỗi
bên nách đều có vành sắt nóng đốt thân cháy rực (sadi chia bánh cúng
chúng, ăn trộm hai chiếc kẹp nách)
- Trên
vai có bình nước sôi, tự tay lấy gáo múc xối trên đầu, đau đớn than khóc
(Duy na nấu sữa nhưng không chia đều. Đợi khách tăng đi rồi mới chia cho
chúng trong chùa. Những tội báo trên đều là hoa báo. Quả ở địa ngục).
Kinh Địa Tạng: Các quỷ
vương có các hình tướng và tánh khí như mắt ác, ăn thai trứng, hành hình, ác
độc, đa ác, đại tránh, huyết hổ, xích hổ, tán vương, phi thân, điện quang, lang
nha, ăn thú vật, đội đá, chủ hao, chủ họa, chủ phước, chủ tài, chủ súc, chủ
cầm, chủ mị, chủ sản, chủ tật, chủ mạng, chủ hiểm, ba mắt, bốn mắt, năm mắt, kỳ
lợi thất, đại kỳ lợi thất, kỳ lợi xoa, đại kỳ lợi xoa, a na tra và đại a na
tra.
Có bốn Thiên vương
thống lãnh tám bộ quỷ thần:
- Càn
thát bà (nhạc thần)
- Cưu
bàn trà (hung dữ)
- Tỳ
xá dà (ăn tinh khí)
- Tiết
lệ đa (quỷ đói)
- Phú
đơn na (hôi thối)
- Dạ
xoa
- Quỷ
truyền thống
- La
sát (ăn thịt người)
Tương Ưng Bộ kinh kể tôn
giả Mục Kiền Liên thấy ở trên hư không có một bộ xương vừa đi, vừa kêu khóc. Vô
số kên kên xúm nhau mổ rỉa. Đức phật dạy đó là một tên đồ tể giết trâu ở thành
Vương Xá. Nó đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều ngàn năm, nay chỉ là dư báo
làm con chim kên kên.
Có người ăn mới có người
giết. Đồ tể giết trâu quả báo như thế, còn người ăn thịt thì sao, chúng ta nên
suynghĩ việc này.
Đó là quỷ, còn ma thì thế
nào? Ma tiếng Phạn là Mara nghĩa là hay cướp mạng, làm chướng ngại, làm rối
rắm, làm phá hoại, não hại.
Có bốn loại ma:
1) Phiền não ma: phiền
não tham sân si, 10 triền, 10 sử hay làm tổn thương não hại nơi thân tâm nên
gọi là ma;
2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma;
3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta;
4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành.
2) Ấm ma: vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức hay sinh ra điều khổ não nên gọi là ma;
3) Tử ma: Cái chết nó hay đứt dựt các căn (gân máu) sanh mạng của chúng ta;
4) Tha hoá tự tại Thiên tử ma: tức ma Ba tuần ở từng trời thứ sáu của cõi dục giới hay phá rối bậc tu hành.
Nên trong kính Lăng
Nghiêm dạy một người phát nguyện mạnh mẽ thì 10 phương cõi ma chấn động. Vì
chúng sợ ánh sáng và thánh thiện, và hay phá ý chí của những bậc xuất gia này,
nay thấy sự phát tâm dõng mãnh của hành giả thì họ lo sợ và cung điện của họ
lay chuyển.
Ngạ quỷ và quỷ thần là
khác nhau. Quỷ là đọa lạc đói khát, còn quỷ thần như đại lực quỷ vương,
a-tu-la… là những quỷ có phước báo và thần thông, sống ở cõi trời và hộ chánh
pháp. Họ có thể dùng thần thông dời núi lấp sông. Có vị ẩn hiện biến hóa kém
hơn và có vị có oai đức chủng loại vô lượng. Các chánh thần có phước đức ở núi
cao, sông lớn hưởng nhân gian cúng dường. Quỷ có phước không đức như dạ xoa, la
sát, lị mị… hưởng cúng máu huyết của các thịt tế thần.
Nói chung, ma quỷ là
những chúng sanh đói khát, khổ đau và cô đơn. Vì thế ta phải làm thế nào để
giúp cho ma quỷ tỉnh ra được và mở cổ họng ra được. Chúng ta phải có lòng từ,
kiên nhẫn và phải có định lực.
Mỗi trưa khi chư tăng độ
ngọ đều lấy ra khoảng trên bảy hạt cơm bỏ trong chén nước nhỏ để xuất sanh và
tụng như sau:
Pháp lực khó nghĩ bàn
Bảy hạt khắp mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không chướng ngại.
Đồng không quỷ mẹ con
Đại bàn kim sí điểu
Tất cả đều no đủ.
Án, độ lợi ích toá ha
Bảy hạt khắp mười phương
Cúng dường khắp tất cả
Từ bi không chướng ngại.
Đồng không quỷ mẹ con
Đại bàn kim sí điểu
Tất cả đều no đủ.
Án, độ lợi ích toá ha
Tất cả chúng quỷ thần
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm nay biến khắp mười phương
Quỷ thần đều no đủ
Nhờ nương pháp nhiệm mầu.
Án mục lục lăng toá ha
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm nay biến khắp mười phương
Quỷ thần đều no đủ
Nhờ nương pháp nhiệm mầu.
Án mục lục lăng toá ha
Ít nhất chỉ bảy hạt cơm
cho quỷ đói thôi, nhưng đó lại có thể là thức ăn cho tất cả chúng sanh. Lời
tụng kinh cảnh tỉnh Phật pháp thấm đượm trong từng hạt cơm đó, với lòng mong
muốn khiến các loại đói khát sớm thoát kiếp đọa lạc. Đó là lòng thương không
ngằn mé, không bờ bến. Chúng ta biết rằng hễ có tình thương thì cái gì cũng
giải quyết được hết, mà không có tình thương thì cái gì cũng giới hạn hết.
Cầu nguyện cho tất cả
vong hồn đoản tử, chết bờ, chết bụi, té sông, rớt giếng, chiến sĩ trận vong,
đồng bào tử nạn, mười hai loại cô hồn và các loài quỷ kể trên sớm bỏ đường mê
sanh về bến giác.
7/ ĐỊA NGỤC
br /> Trong tranh vẽ
cảnh địa ngục có cột đồng nóng bỏng, tội nhân nằm trên giường chông sắt nhọn
hoắt, núi đao, rừng kiếm, suối máu nóng tưới vào thân. Có tội nhân chịu hầm
xương thịt, có tội nhân bị treo trên nọc có đại bàng, chim cú tới thay nhau mổ
rỉa thịt ăn và lửa đỏ cháy khắp nơi.
Những đau khổ ở cõi này
kéo dài từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật tận tình khuyên chúng ta phải
tránh mười tập nhân địa ngục. Đó là tham dục, tham của, khinh mạn, sân giận,
giả dối, lừa gạt, hiềm oán, ác kiến, vu vạ và che dấu lỗi mình, bới lỗi người.
Tỳ Kheo Thiện Tinh cho
chết là hết, không cần lo gì cả. Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương tuyên bố rằng ái ân
không phải là ác nghiệp, không có sao. Do tà kiến như thế, nên cả hai vừa dứt
hơi thở, thần thức tức khắc rơi vào địa ngục vô gián.
Nhân quả báo ứng vô cùng
phức tạp, chỉ thánh nhân, bậc có định lực thâm sâu đã dừng vọng động, trí tuệ
sáng tỏ mới thấy được việc này.
Đức Phật dạy khi lâm
chung, thân thể chúng ta rã rời, không còn nghe thấy gì nữa. Ý thức hoang mang
hiện ra nhiều cảnh, theo sự ghi nhớ trong một đời, đặc biệt là hiện ra những
việc thiện ác đã từng làm. Nếu người lúc sanh tiền tạo ác nghiệp thì khi lâm
chung thấy có nhiều dãy núi lửa lớn, thành sắt lửa cháy đỏ rực, biển lửa, núi
lửa đỏ rực vây quanh không có đường ra. Có nhiều rắn lửa, chó lửa, ngục tốt đầu
trâu, la sát đầu ngựa cầm thương xốc lùa tội nhân vào chỗ khổ.
Trong Nhị Khoá Hiệp Giải
nói có những địa ngục như sau:
- Địa
ngục vô gián: vô là
không, gián là ngừng; tức thống khổ không ngừng, triền miên lũy kiếp
- Tám
địa ngục nóng: Sức lửa mạnh, hòn đá vuông ba mét khối bỏ vào lửa tức
thời tiêu tan, hết hạn trong địa ngục này lại rơi vào các địa ngục phụ
khác. Tám địa ngục là:
- Đẳng
hoạt: Chúng sanh móng tay sắt cào nhau rớt thịt.
- Hắc
thằng: Dây sắt trói, búa sắt chặt.
- Chúng
hợp: Hai núi ép cho thịt nát, xương tan.
- Khiếu
hoàn: Nấu trong vạc dầu, kêu la inh ỏi.
- Đại
hô: Nấu trong chảo sắt, liệng lên tấm sắt quay rán
- Viêm
nhiệt: lò sắt rực đỏ
- Chúng
nhiệt: Ngục tốt (quỷ địa ngục) cầm cây thiết xoa đâm tội nhân, rồi để dựng
đứng trong hầm lửa.
- Xe
lửa: Lột da rồi để dưới xe lửa cho bánh xe nghiền nát
16 địa ngục phụ
là:
1. Rìu bú |
2. Chó sói |
3. Cây kiếm |
4. Rừng đao |
5. Cát đen (cháy da thấu xương) |
6. Phân tiểu (sôi nóng đổ vào miệng) |
7. Đinh sắt (đóng khắp thân) |
8. Nước đồng sôi (rót vào miệng) |
9. Hòn sắt nóng (bắt ăn) |
10. Vạc đồng (nấu sôi) |
11. Nhiều vạc đồng |
12. Cối đá (xay thân) |
13. Mủ máu (nấu sôi mình ở trong) |
14. Đấu sắt nóng (phải cầm đong lửa) |
15. Sông tro nóng (phải gieo thân vào) |
16. Hòn sắt nóng (tay nắm, sức lửa cháy khắp
thân) |
- Tám
địa ngục lạnh: Cũng như địa ngục nóng, tuổi thọ như có 20 hộc mè, cứ
mỗi 100 năm lấy ra 1 hột. Lấy hết hạt mè là hết tuổi thọ. Tám địa ngục là
- Án
phù đà (tội nhân trong đó rét ngặt, thịt nát nhừ)
- Vi
lại phù đà (gió lạnh thổi tới, thân thành bọt nước).
- A
tra tra (lửa khua ra tiếng a tra tra).
- A
ba ba (môi đập thành tiếng).
- Ẩu
hầu hầu (từ cuống họng phát ra).
- Uất
ba la (thịt như ướp đá thành màu tái xanh).
- Ba
đầu ma (thịt đỏ tươi).
- Phân
đà hợi (lạnh chẻ xương trắng).
Ngoài ra trong nhân gian
có các địa ngục rải rác ở các núi, trong lòng nước, ngoài cánh đồng.
Trong kinh Lương Hoàn Sám
nói nơi địa ngục có võng sắt, tối tăm, hang sắt, xe đao, đá nhọn, máy sắt, hầm
than, rừng gai, rừng cháy, nước sôi, đá mài, than nóng, trâu cày, hổ lang và
phun lửa.
Còn trong kinh Địa Tạng
nói có địa ngục thông thương (phóng đâm), sông lửa, dao bay, tên lửa, đao binh,
núi đao, bùn lầy, trâu sắt, chó sắt, lửa sắt, ôm cột đồng nung đỏ, kéo lưỡi cho
trâu cày, đốt tay, đốt chân, ăn mắt, tranh cãi, nhiều sâu, voi lửa, chó lửa,
ngựa lửa, trâu lửa, núi lửa, đá lửa, cưa răng, giường lửa, lột da, uống máu,
treo ngược, nhà lửa, nhà sắt, thành lửa, rút lưỡi, chém chặt, mổ xẻ, ngu si,
khóc lóc, mỏ sắt nhọn, giếng lửa, sỏi bay và gió nóng.
Khế kinh dạy: “Bị thiêu
đốt trong địa ngục chưa gọi là khổ. Chỉ ngu dốt không biết đường đi mới gọi là
khổ. Vì ngu si là gốc nguồn tội.”
Nếu những ai phá luật
phạm giới, hủy báng Phật pháp, làm tổn thương đến tuệ mạng của chúng sanh, nên
phải chịu quả báo địa ngục trong nhiều kiếp. Chúng sanh gây những nghiệp dữ
khác, khi đã đền tội hết rồi thì tái sanh làm quỷ để chịu các quả báo còn lại
của các nghiệp dữ đã gây ra. Đến khi dư báo trong loài quỷ đã chịu đủ, ác quả
của các nghiệp dữ cũng đã hết rồi thì mới lên làm súc sanh, trả lại các nợ cũ.
Nói tóm lại, những nhân
quả trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều do tự mình gây nhân và
chuốc lấy quả. Những nhân quả đó không phải từ trên trời sa xuống và cũng không
phải do người khác đưa đến, mà chính do những vọng tưởng giả dối chấp có cái ta
thật, có sự vật thật, nên mới hoá thành có thật. Tất cả đều do tự tâm huân tập
tự tâm, bằng những tư tưởng xấu, làm cho tự tâm hiện ra những quả báo xấu. Nếu
ngộ được bản lai tâm tánh, thì tất cả sự vật đều như huyễn như hoá, vốn không
có ai làm và làm gì, vốn không có ai chịu và chịu cái gì.
Lại trong kinh Lăng
Nghiêm, mục ‘Nghiệp quả tiếp tục’ (10) Đức Phật dạy trong lúc lấy thân súc sanh
trả các nợ cũ, nếu trả quá phần mắc nợ thì trở lại làm người, đòi lại những cái
đã trả dư. Như thế trong đường luân hồi, chúng sanh vay trả, trả vay lẫn nhau,
nhất là khi mắc nợ thân mạng dù đã trải qua vô lượng vô số kiếp vẫn phải trả.
Chúng sanh gây ác nghiệp,
khi chịu hết quả báo huân tập và đối đãi rồi, trở lại làm người, thì tùy theo
tập quán trước kia mà thành những người có tư tưởng khác nhau, có những người
thông minh, có những người ngu dại. Thế mới biết được sinh làm người, không
phải là dễ. Nếu không học hiểu chánh pháp, biết nhân biết quả, bỏ dữ làm lành,
lỡ ra phải sa vào đường dữ thì rất khó trở lại làm người được.
Trịnh Công Sơn trong bài
hát ‘Xa dấu mặt mặt trời’ hát rằng:
“Hôm nay thức dậy,
không còn thấy mặt trời, không còn thấy loài người, vây phủ quanh đời, nói
tiếng yêu thương. Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời, không còn thấy mặt
người, hay mình đã lạc loài. Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi. Hôm nay thức dậy
mê mỏi thân tôi”.
Đây là trạng thái nghiệp
thức lạc loài vào một cảnh giới của tâm. Cảnh đó tệ hơn cõi người có thể là cõi
ngạ quỷ và địa ngục mới không thấy được mặt trời, mặt người….
Trong câu kết của bức
tranh sáu (hoặc bảy) cảnh giới khổ này là:
“Anh đang sống trong vòng
quay tròn của bánh xe luân hồi. Đầu tóc anh đang bị lửa cháy. Nếu anh vội vàng
dập tắt lửa trên đầu thế nào thì việc ra khỏi sanh tử cũng phải vội vàng như
thế.
Ái dục là gốc khổ đau.
Hãy dập tắt ngay lửa ái dục.”
Trong kinh Lăng Nghiêm
(11) Đức Phật khai thị chỗ hư vọng của bảy loài để khuyến khích tu hành đúng
pháp:
“Này A-nan, xét rõ bảy
loài: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, thần tiên, trời và A-tu-la như thế
đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thọ sanh, giả dối tưởng
tượng theo nghiệp, đối với tâm tánh diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở
tác thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng, chỉ cái hư vọng,
chứ không có cỗi gốc manh mối gì.”
A-nan, những chúng sanh
đó, không nhận được tâm tánh bản lai, chịu luân hồi như thế trong vô lượng
kiếp, mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo
những sát, đạo, dâm hoặc ngược lại ba cái đó thì lại sanh ra không sát, không
đạo, không dâm.
Có thì gọi là quỷ, địa
ngục, bàng sanh; Không có thì gọi là trời, thần tiên. Có và không thay nhau và
phát khởi ra tánh luân hồi. Chúng sanh theo vọng tưởng phân biệt thì không ra
ngoài cái có và không. Dục giới có sắc có dục. Sắc giới có sắc không dục. Vô
sắc giới không sắc không dục đều không thoát ra khỏi cái có và cái không của
phát khởi tánh luân hồi.
Đến đây chúng ta thấy mấu
chốt của luân hồi rồi.
Trong sáu đạo luân hồi,
bốn cõi dưới khổ não bức bách không thể nào tu hành. Cõi trời thường bị cảnh
vui gây mê. Duy loài người đủ giác tỉnh và thông minh để làm nguyên liệu giác
ngộ. Đời người là cơ hội duy nhất để tự chuyển hoá. Nếu ta để lỡ thì lại một
thời gian vô cùng tận nữa mới gặp như ví dụ rùa mù tìm bọng cây. Được thân
người thật khó. Trong số làm người mấy ai may mắn gặp được Phật pháp? Và người
biết đạo, biết tu lại càng hiếm hoi khó thấy.
Sỡ dĩ có bảy cõi khác
nhau đều do phận trong và phận ngoài nặng hay nhẹ. Hay nói cách khác là do
trong tâm ta tình hay tưởng nhiều hay ít. (12)
“A-nan, tất cả thế gian
sống chết nối nhau, sống thuận theo tập quán, chết thì đổi sang dòng khác. Khi
gần mệnh chung, chưa hết hơi nóng, thiện ác một đời đồng hiện ra, cái nghịch
của chết, cái thuận của sống, hai tập khí giao xen lẫn nhau.
Thuần là tưởng thì bay
lên, chắc chắn sinh lên cõi trời, nếu trong tâm bay lên gồm có phúc đức, trí
tuệ cùng với tịnh nguyện thì tự nhiên tâm được khai ngộ, thấy tất cả tịnh độ
thập phương chư Phật, theo nguyện mà vãng sanh.
Tình ít tưởng nhiều, cất
lên không xa thì làm Phi tiên, đại lực quỷ vương, Phi hành “da xoa”, địa hành
la sát đi khắp bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có nguyện tốt, tâm tốt hộ
trì Phật pháp hoặc hộ trì cấm giới, theo người trì giới, hoặc hộ trì thần chú,
theo người trì chú, hoặc hộ trì thiền định, giữ yên pháp nhẫn, thì những vị đó
chính mình được ở dưới pháp tòa Như Lai.
Tình tưởng ngang nhau,
không bay lên, không đọa xuống thì sinh nơi nhân gian, tưởng sáng suốt nên
thông minh, tình u ám nên ngu độn.
Tình nhiều tưởng ít thì
đi vào các loại bàng sanh, nặng làm giống có lông, nhẹ làm giống có cánh bay
lên.
Bảy phần tình ba phần
tưởng chìm xuống dưới thủy luân, sinh nơi mê hỏa luân chịu khí phần của lửa
hồng, thân làm ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình nên trải
trăm ngàn kiếp, không ăn không uống.
Chín phần tình, một phần
tưởng, xuống thấu qua hỏa luân và giữa giao giới của phong luân và hỏa luân,
nhẹ thì sinh vào hữu gián địa ngục, nặng thì sinh vào vô gián địa ngục.
Thuần là tình thì chìm
sâu vào ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm sâu đó lại có hủy báng đại thừa, phá cấm
giới của Phật, lừa dối nói pháp để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính hoặc
phạm ngũ nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A-tỳ thập phương.
Theo ác nghiệp gây ra, tự
chuốc lấy quả báo nhưng trong đồng phận chung vẫn có chỗ sẵn.
Chúng sanh mê lầm chấp
ngã, lấy phân biệt làm tâm, lấy xác thịt làm thân, nên phải theo với cái thân,
cái tâm này mà xoay vần trong đường sanh tử.
Chúng sanh trong mỗi
nghiệp, lúc đương sống thì hàng ngày hành động theo nghiệp thức hiện tiền của
mình, nhưng đến khi chết thì lại phải tùy theo sự huân tập mà đổi sang nghiệp
khác.
Việc ác thuộc về phận
trong. Việc thiện thuộc về phận ngoài. Hai thứ này đua nhau lôi kéo tâm thức đi
lên hoặc đi xuống. Như thế tất cả lục đạo đều do chúng sanh tự mình gây ra
nghiệp nhân, rồi tự mình chịu lấy quả báo. Quả báo giống nhau thì thọ cảnh giới
giống nhau. Quả báo khác nhau thì thọ cảnh giới khác nhau.
Tâm không giác ngộ thì
chỉ thấy thế giới, còn tâm giác ngộ thì thay vì thấy thế giới ta thấy được pháp
giới. Chúng ta biết rằng địa ngục mà trong đó chúng ta đang sống là một sáng
tạo của tâm thức cá nhân và cộng đồng và chúng ta có thể thoát ra được. Nếu tâm
tạo ra địa ngục thì tâm cũng có thể làm ngưng địa ngục. Nếu chúng ta làm cho
tâm tịnh độ phát hiện thì tự nhiên tịnh độ sẽ phát hiện. Chán ghét hoả ngục,
mong ước tịnh độ thì tự nhiên tâm sẽ hướng về tịnh độ. Quay lưng lại địa ngục
và xoay mặt về tịnh độ thì thế nào tịnh độ cũng hiện tiền. Đây là tông chỉ của
kinh Hoa Nghiêm.
Trong Mông Sơn Thí Thực
tụng rằng:
“Lửa đói đốt thành sắt
chảy
Cô hồn đói khát than van
Muốn sanh về chốn lạc bang
Cô hồn đói khát than van
Muốn sanh về chốn lạc bang
Hoa Nghiêm phúng tụng vài
hàng như sau:
Nếu muốn biết rõ
Ba đời chư Phật
Quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo.”
Ba đời chư Phật
Quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo.”
Muốn phá địa ngục cho
người khác, thì chúng ta phải thoát ra khỏi địa ngục của chúng ta trước. Muốn
mở những dây oan cho người khác thì những sợi dây oan khổ của chính ta, phải
được mở ra trước, nghĩa là mỗi chúng ta phải có lòng từ bi, tha thứ, thương yêu
và không chứa hận thù thì sẽ không có địa ngục hiện diện ở cõi này.
(1) Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm
Minh dịch, NXB TP HCM, 1999, tr. 721-49.
(2) 10 triền: Phẩn, phú,
hôn trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố.
10 Sử: 5 Độn sử: Tham, sân, si, mạn và nghi; 5 Lợi sử: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ và kiến thủ.
10 sử làm thể. 10 triền làm nghiệp dụng khiến chúng ta mê muội buộc ràng ở sanh tử, không lúc nào buông tha.
Bốn sử tham, sân, si, mạn đều chấp lấy sự vật giữa thế gian và khởi ra những quan niệm vọng hoặc của tham, sân, si và mạn. Tánh phận của nó trì độn nên gọi là độn sử.
Còn nghi sử là đối với chân lý của tứ đế mà sanh ra điều vọng hoặc này, tánh do dự không quyết định, không nhuệ khí nên đồng loại tham, sân, si, mạn là ngũ độn sử.
10 Sử: 5 Độn sử: Tham, sân, si, mạn và nghi; 5 Lợi sử: Thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ và kiến thủ.
10 sử làm thể. 10 triền làm nghiệp dụng khiến chúng ta mê muội buộc ràng ở sanh tử, không lúc nào buông tha.
Bốn sử tham, sân, si, mạn đều chấp lấy sự vật giữa thế gian và khởi ra những quan niệm vọng hoặc của tham, sân, si và mạn. Tánh phận của nó trì độn nên gọi là độn sử.
Còn nghi sử là đối với chân lý của tứ đế mà sanh ra điều vọng hoặc này, tánh do dự không quyết định, không nhuệ khí nên đồng loại tham, sân, si, mạn là ngũ độn sử.
(3) Bốn cách ăn:
- Đoàn
thực cũng kêu đọan thực: nghĩa là ăn bằng cách từ miếng, từ phần, từ đoạn
và dùng ba trần là hương (hơi hám, mùi hôi), vị (ngọt, lạt) và xúc (chạm
vào thức ăn hay hương thơm). Lấy ba cái này làm thể và lấy biến đổi tiêu
hoại làm tướng. Đây là cách ăn của trời, người và súc sanh.
- Xúc
thực: lấy tâm sở tương ưng của sáu thức, tiếp xúc với cảnh vừa thích ý của
ý, năm căn thoả thuận, vui sướng làm cách ăn. Đây là cách ăn của quỷ thần.
- Tư
thực: lấy tư tâm sở hữu lậu của ý thức để chuyên tinh nghĩ nhớ (tư) chuyển
thành cảnh thắng diệu thiền, giúp ích thân mạng của trời sắc giới, liên
miên tư tưởng mãi chẳng dứt, tức là cõi trời sắc giới lấy thiền duyệt làm
thức ăn.
Ví dụ thấy me chua, miệng
chảy nước miếng để đỡ khát nước. Treo bánh để thấy mà đỡ đói bụng, cũng là cách
ăn bằng cách nghĩ nhớ.
- Thức
thực: thức thứ tám nối nhau giữ căn thân khiến chẳng rã hoại. Thức này cả
bốn thánh sáu phàm đều chung đủ, chỉ có khác với nhau là mê và ngộ. Thánh
nhân thì thức tánh đã giác ngộ viên mãn, vốn sẵn trong sáng gọi là Như lai
tạng thức, vì nó duy trì tất cả công đức có tánh vô lậu: Phi có, phi
không; phi trụ, phi chẳng trụ; đây là cái ăn bằng cách vốn có công đức
chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh trụ.
(4) Nt, tr. 715-19.
(5) Tam luân không tịch
là không thấy người cho, không thấy người nhận và không thấy vật được cho hay
được nhận.
Ta là người bố thí không có, chỉ là đất nước gió lửa. Người nhận cũng là đất nước gió lửa và việc bố thí cũng không. Ba cái đều không, nên không có việc gì tự hào, tự cho ta là hay là giỏi.
Ta là người bố thí không có, chỉ là đất nước gió lửa. Người nhận cũng là đất nước gió lửa và việc bố thí cũng không. Ba cái đều không, nên không có việc gì tự hào, tự cho ta là hay là giỏi.
(6) Tam Bảo: Phật, Pháp
và Tăng.
(7) Ngũ hành là Đất,
nước, gió, lửa và hư không.
(8) Tứ tượng là Âm,
dương, tinh thần và vật chất.
(9) Buổi sáng là giờ ăn
của chư thiên. Buổi trưa là giờ ăn của Phật.
(10) Nt, tr. 292-3.
(11) Nt, tr. 745-6.
(12) Kinh Lăng Nghiêm, 687-8.
Đây là vòng 12 nhân
duyên. Nhân là đưa đến kết quả (năng sanh). Duyên là giúp nhân thành quả (sở
sanh). 12 nhân duyên còn gọi là 12 hữu chi (có cành nhánh), 12 trùng thành (gặp
nhân duyên tạo thành), 12 kinh cước (chỉ móc nối với nhau), 12 liên hoàn (liên
đới và trở lại). Tùy khả năng đọan một khoen là cả vòng 12 khoen tan rã.
Sao mai vừa mọc ngày mồng
8 tháng 12, bồ tát Cồ Đàm chứng ngộ lý Duyên khởi tức 12 nhân duyên này. Từ đó,
ngài dùng ánh sáng duyên khởi làm đuốc soi đường, mở cửa bồ đề cho thế gian
chúng sanh.
12 vòng (khoen) nhân
duyên là:
1. Vô minh |
2. Hành |
3. Thức |
4. Danh sắc |
5. Lục nhập |
6. Xúc |
7. Thọ |
8. Ái |
9. Thủ |
10. Hữu |
11. Sanh |
12. Lão tử |
- VÔ
MINH
Vẽ hình ảnh bà già mù
chống gậy đi trong rừng xương. Rừng xương vì xương sống, xương sườn chúng ta đã
bỏ từ bao kiếp luân hồi.
Mù là không sáng, khởi
niệm quên lửng chân không diệu tánh. Rừng là cũ kỹ, rậm rạp là nhiều. Con đường
toàn xương chúng ta đã đi từ vô thủy, chúng ta đã biết chán chưa? Chúng ta còn
đăm đăm trước mắt chuyện con rắn, heo, gà trước mắt. Còn tham lam, giận hờn cả
ngày, đâu có thời gian nhận được mình là bà già mù đi trong rừng xương.
Quán duyên khởi, thấy mối
tương quan của vạn pháp, huyễn sanh, huyễn diệt. Người có trí biết thương kẻ
đồng nghiệp, tha thứ khoan dung những mê dại. Một lòng từ bi hỉ xả để độ tha.
Vô minh là khởi niệm khiến quên mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
Vô minh là khởi niệm khiến quên mất chân tánh và mất sự sáng suốt của trí tuệ. Do vô minh nên mới tạo nghiệp thiện hay ác để tiếp nối vòng luân hồi sanh tử là hành. Cho nên vô minh (là hoặc, nhân) duyên hành (nghiệp, quả).
Thập triền (phẩn, phú,
hôn trầm, thụy miên, hỷ du, trạo cử, vô tàm, vô quý, khan và tật đố). Triền là
dây trói buộc chúng sanh, khiến chúng ta không ra khỏi sanh tử được mà bị ràng
buộc hoài, không thoát khỏi được sợi dây ái nhiễm, dục nhiễm mà được lên bờ
giải thoát an lạc. Thập triền này là thức ăn của vô minh. Khi vô minh bị đoạn
trừ thì minh khởi.
Chúng ta cần phải làm
giàu trí óc mình, thay đổi hiểu biết và chuyển hoá mình bằng những kho tàng tri
kiến của các bậc cổ đức, cần mở mang và hoàn thiện tâm hồn bằng những dấu vết
bước đi của người xưa.
Chìa khóa hạnh phúc là
tánh giản dị. Do đây ta có đầu óc rảnh rang để lo sự nghiệp tâm linh, không
chăn ba con gà, rắn và heo nữa.
- HÀNH
Trong kinh Pháp Cú, Đức
phật dạy: nếu mình nói hay hành động với tâm thanh tịnh hay ô nhiễm thì an vui
hay khổ não sẽ theo liền với mình như bóng theo hình hay như bánh xe lăn theo
dấu chân con bò.
“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Ta nói hay hành động
Khổ não sẽ theo ta
Như bánh xe lăn theo
Bước chân của con bò.” (1)
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm
Ta nói hay hành động
Khổ não sẽ theo ta
Như bánh xe lăn theo
Bước chân của con bò.” (1)
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Ta nói hay hành động
An vui sẽ theo ta
Như bóng chẳng rời hình.” (2)
Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Ta nói hay hành động
An vui sẽ theo ta
Như bóng chẳng rời hình.” (2)
Như anh thợ gốm đang nắn
chiếc bình. Nắn khéo thì bình đẹp (thanh tịnh). Vụng thì bình méo (ô nhiễm).
Hãy nắn cẩn thận tức là
chính thân miệng ý hiện tại đang tô điểm hoặc bóp méo tương lai của chúng ta.
Lành thiện thì cuộc đời mai sau sẽ huy hoàng. Mê dại xấu ác thì thảm hại đáng
thương đang chờ đợi, tức hành vi hiện tại đem quả báo mai sau nên Hành duyên
Thức, nghĩa là những hành vi hiện tại có năng lực tiềm ẩn, điều khiển thúc đẩy
tâm thức trong chiều sâu, để dẫn dắt hữu tình đi đến tương lai. Nghiệp thường
xuyên thay đổi theo tâm biến hoá của mình như người thợ tùy sở thích mà nắn vạn
hình thiên kiểu.
Nương lời dạy của Đức
Phật, biết rõ hành uẩn duyên sanh, vô thường vô ngã, nhờ định lực, hành vô
hành, đắc vô đắc, có thể dừng bước trên con đường sanh tử vô tận.
Kinh Tương Ưng III, Phẩm
Tham Luyến (3) , Đức Phật dạy:
“Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là hành? Có sáu tư thân này: sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư,
pháp tư. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hành. Do xúc tập khởi nên các hành tập
khởi. Do xúc đoạn diệt nên các hành đoạn diệt. Đây là con đường Thánh đạo Tám
ngành đưa đến đoạn diệt, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”
Đức Phật dạy sắc tư,
thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư là tâm suy nghĩ về sắc thanh hương
vị xúc pháp, 6 trần gọi là Hành. Tư là động lực đưa đến tái sanh, tức là tùy
bàn tay khéo vụng mà thành bình đẹp xấu.
Ý nghiệp là căn bản sanh
tử. Tâm trong sạch là gốc giải thoát. Ý thanh khiết là nền tảng tiến hóa. Ý
nghiệp niệm niệm phan duyên, kích động sáu căn, dung thông khắp cơ thể. Bao
nhiêu nghiệp thiện ác nặng nhẹ, ý đều làm chủ. Ý nghiệp vi tế rất khó khăn cho
chú mục đồng chăn giữ. Chúng ta phải tự điều phục tâm mình như kinh Pháp Cú
dạy:
“Người dẫn thủy, dẫn nước;
Kẻ làm cung, nắn tên;
Người thợ mộc, uốn ván;
Bậc chí thiện, tự điều.” (4)
Kẻ làm cung, nắn tên;
Người thợ mộc, uốn ván;
Bậc chí thiện, tự điều.” (4)
Tâm ta như một dòng sông.
Sự chuyển động của dòng sông là tổng hợp của tất cả những chuyển động từng giọt
nước. Cũng thế, tâm chúng ta là một chuỗi thiện ác, vui buồn yêu ghét. Sự liên
tục xê dịch, đổi dời, triền miên chuyển động biến hóa này là Hành ấm. Rời các
niệm tưởng suy nghĩ không có hành ấm nên nói hành vô ngã.
3. THỨC
Tranh vẽ cảnh chú khỉ nhảy từ cành này sang cành khác. Cành
cũ (nghiệp cũ) đã khô cằn, cành mới trĩu đầy quả (có thể lành hay độc). Tâm
thức thật thể ở khắp pháp giới nhưng vì vô minh cứ gặp cảnh là thọ khổ vui,
khởi yêu ghét. Không ngờ đã mắc chỗ đầu thai đem đến danh sắc. Thân sau gọi là
tái sanh. Thân này là hậu quả của năm uẩn cũ. Thần thức theo nghiệp chịu báo
tái sanh để đền ơn hay trả oán hoặc hưởng phước hoặc chịu tội gọi là thức duyên
danh sắc.
Tâm thức là một chuỗi biến đổi duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền níu qua thức.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc (hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì ngon ngọt, ăn ‘cơm không’ ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật. Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng.
Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại chán bỏ… giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ con khỉ.
Tám thức phân biệt tài tình tuyệt diệu.
Tâm thức là một chuỗi biến đổi duyên sanh làm sống bào thai và là cái biết của sáu giác quan sau này. Nếu định nghiệp sắp làm con trai thì thân trung ấm dấy niệm thương mẹ. Nếu là con gái thì thân trung ấm dấy niệm thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào mẹ, nên nó là hành duyên thức. Cái hành nó chuyền níu qua thức.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố là mạng sống, hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức) và thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức A-lại-da. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Thức tâm là danh (phần vô hình), phôi thai là sắc (hữu hình) nên bảo thức duyên danh sắc, thức leo qua danh sắc.
Lớn lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh phân biệt sáu thức. Nếm mật ong thì ngon ngọt, ăn ‘cơm không’ ta thấy vị lạt nhạt nhẽo. Các thực phẩm mỗi thứ, một vị nhưng khi bài tiết ra, chúng chẳng khác nhau. Cái tô so với cái tách là lớn nhưng so với cái chậu lại bé. Tâm phân biệt theo nghiệp mà nhuốm màu vạn vật. Thế giới sáu trần chính nó tạo ra toàn những bất đồng.
Đường ngọt, muối mặn, khổ vui, động tĩnh chung quy cũng chỉ là nhân duyên sanh nên vô ngã, vô thường, khổ và không. Chỉ cần chúng ta luôn tự chủ và sáng suốt. Những cảm giác khởi lên chúng ta ghi nhận, biết rồi để mặc chúng tan đi với tánh cách vô thường của chúng. Vọng tâm như con khỉ nhảy nhót, ưa thích rồi chán bỏ, rồi lại ưa thích rồi lại chán bỏ… giác quan tiếp xúc sự vật. Yêu và ghét phát sanh. Thế là có anh si mê đứng đấy. Nhưng với chánh niệm thì đấy là lúc trí tuệ phát sanh. Bắt buộc phải có mặt ở một nơi mà các giác quan bị quấy rầy. Đừng ngại, giác ngộ không có nghĩa là điếc hay mù, chỉ cần chánh niệm, không dính mắc. Bản chất là ảo ảnh nên sáu trần tự trôi qua. Điều cần yếu là phải học cách kiểm soát và làm chủ con khỉ.
Tám thức phân biệt tài tình tuyệt diệu.
- Nhãn
thức tâm vương là chủ tể biến ra thế giới màu sắc, hình tướng.
- Nhĩ
thức tâm vương biến ra thế giới âm thanh.
- Tỵ
thức tâm vương biến ra thế giới thơm hôi.
- Thiệt
thức tâm vương biến ra thế giới ngọt chua.
- Thân
thức tâm vương úm bala biến ra thế giới nóng, lạnh, trơn và rít.
- Hoàng
đế ý thức tâm vương tài ba lanh lẹ, quán xuyến vào các pháp trần, chiếu
rọi quá khứ, hiện tại, vị lai và thống lý cả năm quốc gia trên.
Năm thức trên tuần nghiệp
theo duyên biến ra năm trần cảnh, kiến hoặc chấp năm trần là thật. Ý thức phân biệt
xấu đẹp hay dở là tư hoặc. Kiến hoặc, tư hoặc là gốc trầm luân.
Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
Ai chăm quán vô ngã, vô ngã sở thì ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, mở đường cho tạng thức trở về đại viên cảnh trí, thành chánh đẳng chánh giác.
Thật ra nhãn thức không nhìn thấy cảnh bên ngoài đâu.
- Thần
kinh: ta đang nhìn sự vật ở thần kinh trong con mắt. Do ánh sáng mặt trời
chiếu vào bông hoa ở ngoài vườn, phản chiếu qua con ngươi vào thị giác
thần kinh.
- Bóng
ảnh: tâm liền thấy một bóng ảnh gọi là nhãn thức đã sanh.
- Bóng
ảnh theo nghiệp người: theo nghiệp người, cha mẹ, gia đình, nhà trường đã
dạy ta gọi là hoa vạn thọ…Trước kia ta yên chí là ta thấy bông hoa thật ở
ngoài vườn. Đâu ngờ mình chỉ thấy bóng ảnh ở thần kinh của nghiệp người,
theo duyên hiện lên gọi là nhãn thức sanh; rồi lại theo duyên tan đi, gọi
là nhãn thức diệt.
Bóng ảnh này không phản
ảnh trung thành sự thật đâu. Nó theo duyên ánh sáng mặt trời, giả hiện trong
lòng mắt đang tối của loài người. Mắt cua tròn xoe lồi ra ngoài hẳn lãnh tia
sáng một cách khác. Bông hoa hiện lên hẳn cũng phải là một hình sắc khác. Các
công nghệ sản xuất gương hiện nay minh chứng điều đó cảnh vật tuần nghiệp phát
hiện. Thế cho nên, nhãn thức hư vọng vô ngã và nhãn thức hư vọng thế nào thì
năm thức kia cũng vậy.
4. DANH SẮC
Phật dạy vẽ một chiếc
thuyền đang chở bốn thùng đồ vật (đất, nước, gió và lửa). Vọng thân như con
thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử.
Danh là tâm (sắc là đất
nước gió lửa) chính những yêu ghét mừng giận của chúng ta hàng ngày đưa chúng
ta đi đầu thai, như khỉ theo nghiệp leo trèo mà có lên hay xuống. Đức Phật gọi
bào thai là danh sắc.
Tâm là danh, người chèo
lái con thuyền tức thức A-lại-da. Một khi thân đã thành tựu hoàn mãn rồi, thức
này sẽ lần hồi nảy sanh bảy thức kia. Cái nghiệp (vọng thân) của mình như
thuyền đang trôi trên dòng sông sanh tử. Có Danh Sắc bào thai thì có sáu căn.
Nên danh sắc duyên lục nhập.
LỤC NHẬP
Lục Nhập là sáu căn (bào
thai hoàn mãn ra khỏi bụng mẹ). Phật dạy vẽ nhà có sáu cửa vì sáu trần sẽ từ
sáu căn đi thẳng vào tâm.
Căn nhân trần phát ra cái
biết và trần nhân căn mới có tướng hiện; từ đó thức phân biệt là đầu mối chia
chẻ nhị biên, khiến ngã tánh sai lầm mọc rễ. Chủ thể nhận thức (tâm) và đối
tượng nhận thức (cảnh) dựa nhau đồng khởi là do môi giới sáu căn.
Kinh Lăng Nghiêm (5) ,
mười phương Như Lai khác miệng đồng lời xác nhận rằng: “Đầu nút câu sanh vô
minh khiến luân hồi sanh tử chính là sáu căn, cho nên y sáu căn mà cởi gỡ thì
được tịch thường đạo quả an vui giải thoát” (Tri kiến lập tri tức vô minh bản;
tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn).
Thế thì sở dĩ bây giờ
chúng ta là chúng sanh và Phật là bậc thánh vì ngài khi sáu căn tiếp xúc sáu
trần thì không khởi niệm, còn mình thì mở tung các căn như căn nhà mở toang các
cửa để thu nạp và lãnh trần cảnh, rồi tính toán khôn dại, hơn thua, lợi hại.
Thế là vô số tham, sân, si khởi dậy và tạo ra nghiệp sát, đạo, dâm, vọng…
Do có sáu căn mở toang
tiếp cảnh ngoài nên có xúc chạm, vì thế lục nhập duyên chuyền níu qua xúc.
XÚC
Căn trần xúc chạm (mắt
xúc trần, tai xúc thanh, mũi xúc hương, lưỡi xúc vị, thân xúc chạm và ý xúc
pháp) nhưng nguy hiểm nhất là nam nữ hai thân xúc chạm. Đây là nguồn chảy thành
biển trầm luân sanh tử thế gian.
Thân này là quả của dục
nhiễm. Rồi trong lúc có thân, chúng ta lại tiếp tục tạo vô số các nhân mới để
tạo quả vị lai. Hàng ngày yêu thích cái áo này, ký tên với cây viết này mới
chịu, làm việc với người mình hạp, chỉ thoả mãn với món ăn mình thích, chỉ nói
chuyện hay email với người mình ưa… những việc nho nhỏ đó đều biểu lộ chủng tử
lòng ái nhiễm, lòng tham ái của con gà hay bồ câu và ta cứ vô minh, vô tình hay
cố ý tạo những hạt giống chủng tử đó.
Thế nên bổn phận đầu tiên
của người xuất gia là hộ sáu căn (hộ mắt đừng để thấy sắc ái nhiễm, hộ tai đừng
nghe tiếng bậy, hộ lưỡi đừng thốt lời ám muội, hộ mũi đừng ngửi hương son phấn,
hộ thân đừng đam mê xúc chạm, hộ ý đừng để tư tưởng bất chính khởi lên). Quán
thân do bốn đại đất nước gió lửa giả hợp, không ta, không người, không thọ và
không mạng.
Sự xúc chạm là pháp không
có. Chỉ có sự có mặt hai duyên căn trần. Rộng quán sát sẽ thấy tất cả vạn pháp
đều không tự có. Thực sự chỉ là sự có mặt của duyên. Ai am hiểu sự thật này là
hiểu Phật pháp.
Không nhận thức được thật
tướng của các pháp, không thấu đáo được chân tướng của chính mình, không có
chánh kiến là vô minh. Bà già mù vô minh vẫn ngự trị muôn loài cho tới bao giờ
chúng ta chịu mở mắt theo ánh sáng giác ngộ của Như Lai.
THỌ
Hàng ngày chúng ta thọ
cơm, thọ nước uống, thọ dưỡng khí vào, thọ hơi ấm mặt trời. Rồi chấp thủ đất,
nước, gió, lửa vô thường này là ta. Thân kiến là gốc tất cả tà kiến. Cho thân
là ta nên mỗi khi căn chạm cảnh, tâm liền thọ trần mà có khổ vui. Tất cả chỉ có
thọ ấm vọng lãnh nạp hư phát minh mà thôi. Thọ uẩn là yếu tố kích thích, trói
buộc và sai sử chúng ta rõ ràng nhất.
Thọ thì khổ vì có nhận
lãnh là có khổ. Thọ thân này là thân riêng của ta. Thọ tâm này là tâm riêng của
ta là cái thọ đầu tiên để từ đó có những cái thọ khác. Nào là thọ cái ăn, thọ
cái mặc, thọ cái ở, thọ sắc, thanh, hương, vị, xúc, thọ những cái làm ta thích
thú, thọ những cái cần thiết, thọ những cái không cần thiết, rồi thọ những cái
xa xỉ, thọ những cái thừa thãi, vô ích vì thói quen góp nhặt tham lam không thể
bỏ qua. Mỗi chúng sanh, mỗi cuộc đời là một chuỗi những thọ nhận liên tiếp.
Thọ cuộc đời là một
trường đau khổ (khổ đế: tám khổ). Còn nhiều nỗi khổ khác do thọ mà ra như nhận
được một cái quý thì nơm nớp sợ mất, lo giữ nhưng chắc gì còn với mình. Người
giàu sợ mất của. Người có địa vị sợ mất địa vị. Người có người yêu sợ mất người
yêu. Người có danh vọng sợ mất danh vọng. Thọ thuận thì vui. Thọ nghịch thì
khổ. Thọ không thuận không nghịch thì si. Đây là lạc thọ, khổ thọ và si thọ.
Tóm lại ba thọ đều là khổ.
Thân vô ngã (vọng thân vì
bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), tâm cũng vô ngã (là vọng tâm vì thọ,
tưởng, hành và thức là không). Thân và tâm không phải là hai thực thể riêng
biệt, độc lập và tách rời. Chúng luôn đi đôi, quan hệ liên đới chặt chẽ, đồng
xuất phát từ một tạng thức u mê nhưng tài tình kỳ diệu.
Hàng ngày sáu căn tiếp
xúc sáu trần, thọ khổ vui, tưởng yêu ghét, hành suy nghĩ và thức phân biệt. Ai
cũng biết thọ chỉ là cảm giác nhân duyên sanh. Đã là cảm giác thì hẳn hư vọng.
Nhân duyên sanh là trong chấp ngã (cho thân này là thật), ngoài chấp pháp (cho
sáu trần là thật). Ví dụ: Mắt nhìn thấy một người thân thương, tâm vui (thọ
lạc, vui vì gặp thuận cảnh, đưa đến ái ngã); Nhìn ra vườn thấy ai dẹp những
chậu hoa cúc dễ thương của mình đi, bực bội (khổ thọ, vì chạm cảnh trái ý).
Nhìn cảnh không buồn không vui (si thọ vì chấp có ta đang nhìn cảnh ấy). Nếu
vui từ tâm ra thì sao không thường vui, nếu vui từ cảnh ra thì can hệ gì đến
ta, rõ ràng thọ trống rỗng hư vọng không thật thể. Hàng ngày sáu căn tiếp xúc
sáu trần, nuôi dưỡng ba độc tham sân si. Các tổ có tuệ giác nên bình thản, gọi
là xả thọ.
Chúng sanh cho thọ là vui
nên càng thọ càng tốt. Đức Phật dạy thọ thì khổ.
- Hoại
khổ: ta gọi vui (lạc thọ), Phật gọi là hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô
thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang mất, thấy vui chỉ là do pháp trần
lạc tạ ảnh tử.
- Khổ
khổ: ta gọi khổ (khổ thọ), Phật gọi khổ khổ vì thân sanh già bịnh chết đã
khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài.
- Hành
khổ: ta gọi bình thường, không khổ không vui (si thọ), Phật gọi là hành
khổ vì si mê cho căn trần là thật, chấp ngã chấp pháp càng huân càng dày
thì quyết định chỉ đi đến tam đồ khổ báo, thế nên cả ba thọ đều khổ.
Thọ khổ là khổ, vì tăng
trưởng sân não.
Còn bình thường huân tập
ngu si không tuệ, nên thọ si là khổ.
Còn vui thì tăng trưởng
lòng tham, lún sâu vào biển vô minh, khó nghĩ tới sự ngóc đầu ra, nên lạc thọ
là khổ.
Dòng sông là những giọt
nước đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển
biến. Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không
ngừng, theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, khổ
đưa đến chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham và sân nổi dậy. Nay chánh niệm
thì tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ được diễn biến chiếu soi dưới ánh sáng
của ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi
chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ.
Kết quả đầu tiên là khôi
phục lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất đi ma lực của nó.
Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp pháp mà có cảm thọ.
Kết quả thứ ba là biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên.
Có khi tu tập cả chục năm qua rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.
Kết quả thứ hai là thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã, chấp pháp mà có cảm thọ.
Kết quả thứ ba là biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên.
Có khi tu tập cả chục năm qua rồi mình vẫn chưa vô được những ý nghĩa này. Xin hãy suy nghĩ.
Cả ngày gắt gỏng cau có
do nguyên nhân vì thức khuya, thiếu ngủ, đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Bị
một người bạn hiểu lầm, bực tức, thọ khổ, đây gốc là từ tâm lý. Đi về thấy ai
bày trong phòng mình rác bẩn, đồ đạc lộn xộn bừa bãi, phát cáu, đây là thọ khổ
vì vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã
ái và lạc thọ này đưa đến ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào, tự
mãn vô ích. Một khi lạc thọ ảo hoá tan biến nhường chỗ cho những niềm vui lành
mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ, trưởng dưỡng thánh thai, thế nên cảm thọ
rõ ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mọi người.
Bởi vậy, Phật dạy vẽ minh
họa sự xúc thọ như người bị mũi tên độc bắn vào mắt. Nếu người khôn thì rút ra
rồi, nhưng chúng ta cứ cắm mũi tên ấy tự đâm vào mình từ sáng đến chiều, ngày
này sang ngày khác cho nát thây ra, nếu có ai hỏi thì rút ra đâm vào người khác
nữa. Ví dụ có người nói vu oan cho ta, tức là bị một mũi tên đâm vào mắt, vào
tim. Chúng ta đâu có chịu quên lời nói trái tai ấy đâu. Mỗi lần nhớ là một lần
đâm sâu vào mắt. Chưa đủ, ta lại điện thoại hay email cho người ở Sa Đéc, Cà
Mau… rồi Ấn độ, Hoa kỳ… kể nỗi oan khổ của mình cho người khác nghe, thế là đưa
tiếp những mũi tên khác đâm vào mắt người khác. Cứ thế mỗi ngày chuyển không
biết mũi tên đi để tự đâm vào mắt người mà không biết lời thị phi đó chỉ là trò
chơi của động và tĩnh, là làn sóng âm ba, là cái không có. Chỉ bậc thánh nhân
xả thọ mới an ổn tinh thần, tìm được sự thanh thản mát mẻ. Một thiền sư nói
rằng:
“Thị phi rơi rụng như hoa sớm
Để lòng lạnh băng với gió sương.”
Để lòng lạnh băng với gió sương.”
Hàng ngày quán chiếu
thân, tâm và cảnh đều giả nên an định tinh thần. Nhiều mũi tên có bay đến,
nhưng cả các thánh nhân không nhận và không giữ, thế là chúng tự gẫy và rụng
xuống như hoa rơi. Nếu không thế thì dù xuất gia vẫn sâu kết phiền não, gồng
gánh trọn đời.
“Kẻ hơn mua oán,
Thua ngủ không yên,
Hơn thua đều xả,
Tự tại bình an.” (6)
Thua ngủ không yên,
Hơn thua đều xả,
Tự tại bình an.” (6)
Yêu tương tư là mũi tên
cắm phập sâu nhất.
“Thương em mười kiếp vẫn chờ
Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà”.
Trăm ngàn năm nữa vẫn thương em mà”.
Vì đưa đến tham đắm, dấn
vào biển vô minh, cho nên đời đời, kiếp kiếp ràng buộc gặp nhau hoài. Mỗi tên
này nhiều vị độc, mũi tên tình ái. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Có ba loại người
không sợ trời sập là kẻ điên, kẻ say và người đang yêu” vì những kẻ này bị tên
cắm quá sâu, đắm nhiễm mà không màng gì đến sự nguy hại xung quanh.
Tứ Niệm Xứ là kiện tướng
để hàng phục vọng tưởng hay thọ tưởng ái nhiễm này. Chúng ta từ nhiều kiếp quay
cuồng chỉ vì bốn đảo:
1) Thân bất tịnh mà cứ
quý chuộng mê say cho là nơi nương tựa;
2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát, những mong càng được nhiều càng hay;
3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu thức là thật.
2) Thọ thì khổ mà cứ khao khát, những mong càng được nhiều càng hay;
3) Tâm vô thường, vọng tưởng mà cứ tin chắc là một phiến thủy chung sáng suốt;
4) Pháp không thật mà cứ cho nội sáu căn, ngoại sáu trần, chặng giữa là sáu thức là thật.
Quán chiếu thuần thục mới
không nô lệ sáu trần, khôi phục lại quyền tự do độc lập.
Tứ niệm xứ dạy chúng ta
dùng hơi thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui, của tình cảm ái nhiễm, rồi từ từ
điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần
dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hoá cả ba thọ, ba tưởng. Chánh kiến thấy rõ
nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự
khống chế của nó. Đối trị thọ với chánh niệm không nhận là mình. Biết nguồn gốc
thọ là vô minh, tánh nó là hư vọng.
Quang trạch được khu rừng
năm ấm sẽ được hưởng bình an, thong thả đi trong đời không bị dính mắc, là con
đường Niết Bàn.
Hãy quán có thọ thì có khổ. Có lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ.
Hãy quán có thọ thì có khổ. Có lãnh thọ nhiều thì khổ nhiều. Có lãnh thọ ít thì khổ ít. Đức Phật dạy như nhiên để nó đến rồi đi, thọ mà không thọ.
8. ÁI
Như người say rượu, đã
uống mấy chai rồi, say lỉ bỉ, mấy chai không nằm nghiêng ngả lăn dưới đất. Trên
bàn một chai để sẵn sắp sửa uống và còn mấy chai nữa sắp hàng chờ đợi. Ý nghĩa
bức tranh này cho ta biết khát khao thọ cảm vẫn vô tận trong lòng muôn thú,
trong lòng chúng ta, quá khứ cũng thọ ái dục, hiện tại vẫn thọ và mãi đến vị
lai. Ái dục ngọt ngào khiến càng say sưa đắm đuối mất chánh kiến.
Tri giác khởi liền sau
thọ. Yêu thích tham luyến tiếp liền sau thọ vui. Ghét bỏ xa lánh tiếp liền khổ
thọ. Do đó, hết yêu đến ghét, hết ghét lại yêu, cứ vậy triền miên niệm niệm
vọng tưởng. Thật ra tưởng tức không, vì rời đối tượng hiện tại và các pháp trần
nhớ về quá khứ, vị lai, tưởng quả tình không có, chỉ đối duyên tạm có, duyên
diệt ảo tưởng liền tan.
Ngài Quán Tự Tại bồ tát
thấy nghe hay biết đủ thứ, không bị che mờ, không bị chi phối. Tất cả hay dở,
lành dữ đều bay qua như gió thoảng, như hư không. Được như vậy nên hết khổ. Lời
nói là thứ hư vọng, chỉ là trò chơi động tĩnh, trò chơi của khí hơi, do không
khí chuyển động (làn sóng âm ba) mà thính giác thần kinh tự biến ra âm thanh để
phân biệt. Trí tuệ Bát Nhã biết lời nói là gió thoảng nên không bận lòng. Không
ôm không khí chuyển động đó để suy nghĩ rồi sinh oán ghét hay thương yêu.
Thực hành sâu xa Bát Nhã
không có nghĩa là chìm nghỉm trong đó mà là tự tại không gián đoạn. Tâm an định
một phiến. Tưởng uẩn không lúc nào bị chi phối. Thế là hết khổ. Chúng ta khi
đang quán thì tưởng uẩn trừng lặng. Nhưng khi xúc sự vẫn nhận vọng tưởng là
mình. Thế là thực hành Bát Nhã chưa sâu nên hễ đụng chuyện liền khổ.
“Ái bất nhiễm bất sanh ta
bà” vì nhân ái nhiễm nên chúng ta hiện diện ở đây. Vì thế, Đức Phật dạy ở khoen
xúc rằng sự xúc chạm của nam nữ là nguồn chảy thành biển trầm luân sanh tử thế
gian.
Loại tình cảm được đề cập
đến nhiều nhất trong các tác phẩm nhân loại đó là tình yêu nam nữ. Đây là loại
tình cảm mãnh liệt hơn các loại tình cảm khác bởi vì nó liên quan đến bản năng
sâu kín của con người. Con người luôn muốn chiếm đoạt về mình mẫu người có
thể đem lại hạnh phúc cho mình. Đây là tâm lý vị kỷ và tình nam nữ có sự
thôi thúc âm thầm của hoạt động tình dục, một loại hoạt động gây khoái cảm xác
thịt rõ rệt nhất là duyên hệ lụy ràng buộc của nhiều đời, là nguồn máy để tạo
ra bánh xe luân hồi quay chuyển. Nếu không có thiện căn thâm sâu, không nguyện
lực kiên cố, không có thiện tri thức hỗ trợ thì tăng cũng như tục khó thoát
khỏi lưới ái nhiễm này.
Nhìn sâu vào thì tình yêu
cũng chỉ là bản chất ích kỷ tăng thêm ngã ái, ngã luyến; người thương mình nên
mình thương lại và đây cũng là sự hưởng thụ của bản năng con người. Chính bản
năng thích hưởng thụ đã thúc đẩy nam nữ tìm đến nhau, và ngược lại nó cũng thúc
đẩy họ làm khổ lẫn nhau (biết bao nhiêu vợ chồng gây gỗ, đánh đập, li dị, ngoại
tình; nhưng ngược lại cũng có những cặp có tình thương chân chính của sự hy
sinh, độ lượng, vị tha… thì tình yêu đó có thể bớt đi màu sắc bi quan của bản
năng ích kỷ).
Mặt trái của ái, yêu là
ố, là ghét. Yêu ham điều này, chán ghét điều khác, nên thọ duyên ái ố. Ca dao
Việt Nam
có câu:
“Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.”
Hay:
“Thương nhau trái ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo.”
Ghét nhau bồ hòn cũng méo.”
Yêu cũng nhớ mà ghét càng
nhớ hơn. Tâm vướng mắc dù thân không có cạnh nhau nhưng vẫn mang nỗi không ưa
trong lòng. Ràng buộc khổ não đâu có chịu xả ra mà càng nhớ thì càng si mê.
Càng mê càng khổ, càng khổ càng mê. Cứ thế đi đến vô cùng. Chúng ta có hai câu thơ:
“Vũ vô kềm tỏa năng lưu khách,
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.”
Mưa không có kềm dây
nhưng có khả năng lưu giữ bước chân khách.
Mỹ sắc không phải sóng ba
đào nhưng có thể dìm chìm kẻ anh hùng hào kiệt.
Đây là sức mạnh của ái
tình và lòng ái nhiễm.
Kinh Pháp cú có rất nhiều
lời dạy của Đức Phật về lòng ái nhiễm như:
“Dòng ái dục chảy khắp,
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.” (7)
Như dây leo mọc tràn,
Thấy dây leo vừa sanh,
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.” (7)
“Ai sống trong đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu khổ tự tiêu dần,
Như nước giọt lá sen.” (8)
Ái dục được hàng phục,
Sầu khổ tự tiêu dần,
Như nước giọt lá sen.” (8)
“Biết thân như bọt nổi,
Giác thân to huyễn hóa,
Bẻ mũi tên ma ái,
Vượt tầm mắt tử thần.” (9)
Giác thân to huyễn hóa,
Bẻ mũi tên ma ái,
Vượt tầm mắt tử thần.” (9)
“Người nhặt hoa dục lạc,
Tâm ái nhiễm mê cuồng,
Đắm say trong dục vọng,
Bị nô lệ tử thần.” (10)
Tâm ái nhiễm mê cuồng,
Đắm say trong dục vọng,
Bị nô lệ tử thần.” (10)
“Do vậy chớ yêu ai,
Ái biệt ly là khổ,
Những ai không yêu ghét,
Không có thể buộc ràng.” (11)
Ái biệt ly là khổ,
Những ai không yêu ghét,
Không có thể buộc ràng.” (11)
“Luyến ái sinh ưu tư,
Luyến ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát luyến ái,
Không ưu không sợ hãi.” (12)
Luyến ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát luyến ái,
Không ưu không sợ hãi.” (12)
“Tham ái sinh ưu tư,
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát tham ái,
Không ưu không sợ hãi”. (13)
Tham ái sinh sợ hãi,
Ai giải thoát tham ái,
Không ưu không sợ hãi”. (13)
Trong Tương Ưng: “Từ vô
thủy luân hồi, này các Tỳ Kheo, không dễ gì tìm được chúng sanh trong thế gian
này lại không lần nào làm cha hay làm mẹ.”
Tuần báo News Week ra
ngày 03 tháng 11 năm 2003, Robert J. Samaelson, một kinh tế gia nổi tiếng nói:
“Thường những người trẻ
thì muốn già hơn, còn người già thì muốn trẻ hơn. Đây chẳng qua chỉ là một đoạn
đường trong nỗ lực kiếm tìm hạnh phúc thiên thu bất tận của con người”.
Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật
dạy rất rõ về giới dục nhiễm (14) này:
“Nếu chúng sanh lục đạo
các thế giới, cái tâm không ái nhiễm, dục vọng không theo dòng sanh tử tiếp
tục. Nếu tu theo pháp tam muội cốt để ra khỏi trần lao, nếu không trừ lòng ái
nhiễm thì ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu
không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì không ra khỏi trần lao được. Dù có nhiều trí
thiền thiền định hiện tiền, nếu không đoạn trừ lòng ái nhiễm thì cũng lạc vào
ma đạo. Hạng trên thành ma vương, giữa thành ma dân, dưới thành ma nữ. Các bọn
ma này cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng.
Sau khi Như Lai diệt độ,
trong thế gian có nhiều loại ma này, giả làm thiện tri thức, khiến các chúng
sanh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề. A-nan, nếu ông dạy chúng sanh
tu pháp tam-ma-đề trước hết phải đoạn dục vọng trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy
rõ ràng thanh tịnh, quyết định thứ nhất của các đức Như Lai, Phật, Thế Tôn. Thế
nên A-nan, nếu không đoạn lòng ái nhiễm, tà hạnh mà tu thiền định thì cũng như
nấu cát, nấu đá mà muốn thành cơm. Dẫu trải qua trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là
cát nóng, đá nóng. Vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản
nhân của cơm vậy.
Ông đem thân tâm cầu diệu
quả của Phật, dầu được diệu ngộ cũng chỉ là gốc dục vọng, cỗi gốc đã thành dâm
thì phải trôi lăn trong tam đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu chứng niết
bàn. Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống ái nhiễm cho đến tính đoạn
cũng không còn nữa thì mới trông mong chứng quả bồ đề của Phật. Như lời tôi nói
đây, gọi là lời nói của Đức Phật. Không như lời nói đó, tức là lời nói của ma
Ba tuần.”
Ma ba tuần là ma ở trên
cõi trời dục giới hay phá hoại bậc tu hành bằng hình thức hiện mỹ nữ hay dùng
danh lợi để lung lay chí nguyện người tu hành.
9. THỦ
Tâm đã có thủ chấp, yêu
ghét đã quyết định thì hăng hái tạo nghiệp, nên Phật dạy vẽ một người đang cố
vươn mình lên để hái trái (có thể quả độc hay lành), không biết xả đi để tìm an
vui tinh thần.
Bởi lòng tham ái càng
ngày càng thấm, càng nhiều nên bôn ba theo đuổi tìm kiếm khắp nơi, giáp xứ để
tiến thủ lấy công việc làm ăn, ở và lo bảo thủ lấy tên tuổi công danh, sự
nghiệp, người thương… nên nói ái duyên thủ. Hễ yêu muốn sự chi thì nó chuyền
leo đến để bám giữ. Ái và thủ thuộc hoặc.
Con người là năm thủ uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành và thức) nghĩa là có thói quen tự cột chặt vào năm uẩn.
Bao nhiêu tập khí vô minh đều nhận là tôi: thân tôi, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa
thích, tôi nóng tánh… nên cứ bị kích thích, tạo nghiệp. Gốc khổ không phải ở
năm uẩn mà ở chỗ cứ vơ lấy năm uẩn nhận là mình. Nếu giác tỉnh, bình tĩnh, sáng
suốt, không thủ chấp thì năm thứ mê này sẽ tan dần. Muốn tỉnh giác phải vâng
theo lời Phật, tu các pháp quán: sắc ấm là kiên cố vọng tưởng, thọ ấm là hư
minh vọng tưởng, tưởng là dung thông vọng tưởng, hành ấm là u uẩn vọng tưởng và
thức ấm là vi tế tinh tưởng.
10. HỮU
Hễ có thủ chấp liền tạo
nghiệp nên vẽ một thiếu phụ mang thai (tạo nghiệp là gieo vào tạng thức một cái
nhân để ngày mai có quả báo trong sáu nẽo luân hồi, như cái thai là nhân sau
này có hài nhi).
Giữ năm giới là nhân sanh
về cõi người. 10 thiện là lên cõi trời. Có thêm thiền định thì lên sắc và vô
sắc giới. Tất cả những hành vi thiện lành mà không có trí tuệ Bát Nhã soi sáng,
đều có một năng lực tiềm ẩn để trổ quả trong tương lai, kéo dài hành trình sanh
tử, nghĩa là khi chúng ta làm một Phật sự hay phước thiện gì mà không quán tam
luân không tịch (ta không, người không và sự bố thí là không) hay quán đây diệu
dụng để trang nghiêm biển phước bồ đề mà thường chúng ta muốn hưởng quả của
việc thí đó, thì chúng ta sẽ được quả, do đó chúng ta cứ đi lên để hưởng phước
thiện ở cõi trời, người và a-tu-la, nhưng cũng có khi đi xuống để đền nợ, trả
oán, chịu quả ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và bàng sanh, do đó bánh xe luân hồi lăn
hoài từ vô thủy (không chỗ bắt đầu) mà không gián đoạn đến vô chung (không chỗ
kết thúc).
11. SANH
Vẽ đứa trẻ sơ sanh
từ bụng mẹ sanh ra. Đã có thân hình ắt có sợ hãi, có già bịnh. Đây là một ổ
phiền não. Đây là nguồn gốc của tất cả khổ đau.
Vũ trụ là một cơ thể sống
thống nhất với nhau, trong đó mọi vật thể đều dường như có một sức sống thầm
kín ẩn dấu bên trong dù đó là chất hữu cơ hay vô cơ (hữu tình hay vô tình).
Tất cả đều theo quy trình
sanh, trụ, dị và diệt. Ngay cả sự hủy diệt của một hành tinh, cũng chỉ là sự
sinh hoá kế tiếp theo sau của vũ trụ. Ngay cả một chiếc lá vàng rơi rụng, một
gốc cây khô già cỗi, một bô lão nằm xuống… cũng không nằm ngoài tiến trình sống
của nhân loại và vạn hữu. Tất cả đều sống và đều sinh hoá vô tận.
Krishna Murti, nhà văn và
triết gia Ấn độ đã nói rằng: “Sáng nay hoa lá vĩnh viễn, vượt thời gian và tư
tưởng, bao dung tình yêu và niềm vui… Hoa sẽ chết đi chiều nay, nhưng ẩn tàng
sự sống. Cánh hoa nào cũng chết, nhưng chết trong sự sống. Cánh hoa nào cũng sẽ
rơi nhưng rơi trong sự sanh khởi…”
Trong vòng quay của hữu
tình và vô tình, sự sống được biểu hiện rõ nét nhất nơi đời sống của sinh vật
qua quá trình giao phối của hai giao tử đực và cái, nam và nữ, cha và mẹ để cho
ra đời những giống con tiếp tục duy trì chủng loại đó gọi là sanh.
Nếu định nghiệp sắp làm
con trai thì trung ấm thân dấy niệm thương mẹ, nếu là con gái thì dấy niệm
thương cha. Nhơn lòng yêu làm hạt giống, nạp tưởng điên đảo nên thai để gá vào
mẹ.
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
Khi thần thức hoan hỉ với lúc cha mẹ giao hợp, ba hơi nóng hay điểm này (cha, mẹ, trung ấm) này nhập cục với nhau như một điểm hồ đặc ở trong tử cung. Thức ấy là tinh thần; tinh cha huyết mẹ là vật chất. Bấy giờ trong bào thai có ba nguyên tố:
1) Mạng sống có kỳ hạn
của thai sanh;
2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.
2) Hơi ấm của ba lửa (cha, mẹ, thần thức lẫn giữa khối tinh huyết ấy kêu là nhất điểm chơn dương);
3) Thức: tánh biết, tánh Phật mà khi cuộc vào thân người thì gọi là thức Alaida. Khi đầu thai, thức này đến trước nhất, rồi lần hồi nảy sanh bảy thức kia.
12. LÃO, BỊNH VÀ
TỬ
Chết là cái chắc chắn đến
với mỗi chúng ta, nhưng khi nó đến vẫn mang cho chúng ta một nổi bàng hoàng,
một sự đau buồn to lớn… nhưng dù thế nào đi nữa, nó cũng là một sự cảnh tỉnh
chúng ta rằng mạng sống con người thật ngắn ngủi, không thể đoán trước được và
thật mỏng manh.
Chết là tiếng gọi chung
từ tử thần, là một định nghiệp chung và là mẫu số chung cho tất cả chúng ta.
Chết nhắc cho chúng ta về
bản chất phù du của mạng sống ngắn ngủi, khiến ta phải suy nghĩ lại về mình và
khuyên chúng ta sống có ý nghĩa hơn, đừng lãng phí thời gian theo những theo
đuổi tầm thường, theo những hoạt động vô tích sự, những lời nói sáo rỗng, những
bảo thủ ngu dốt, những sở hữu vật chất tầm thường… vì những cái này kết cuộc
chỉ gây đau khổ cho chúng ta.
Khi linh hồn chúng ta đi
ra khỏi thế giới này thì những sở hữu, những thành tựu, những danh tốt, tiếng
thơm đều trở thành vô dụng, chỉ có bản chất đạo đức con người mới có tồn tại…
chỉ có tính chánh trực, lòng tốt, kiên nhẫn, trí tuệ và sự hy sinh hết lòng vì
người khác là còn mãi. Hãy tu tập những phẩm tánh cao thượng này, thì cái chết
đến sẽ là một sự ra đi nhẹ nhàng, là một sự hoàn thành lớn và không có gì để sợ
hãi. Chết sẽ là sự hoan hỉ nên đánh vang tiếng trống, vui mừng vì ta đã hoàn
thành nhiệm vụ. Sanh tử đã hết, gánh nặng đã đặt xuống, những việc cần làm đã
làm xong. Không còn gì nữa.
Đức Phật dạy đối trị lòng
tham ái xác thân bằng hạnh đầu đà và quán về cái chết (cửu tưởng quán). Tập
thấy mình là một xác chết, một tử thi. Một cô gái trẻ đẹp đi qua kia chỉ là
những bộ xương bọc thịt, phủ một lớp da, xức dầu thơm, bản chất là 32 thể trược
đang chuẩn bị hoá dòi mủn nát trở về với cát bụi.
Niệm thân để đối kháng
lại chỗ thấy biết rất sai của mình.
Cháu đưa đám ông, con đưa
đám cha. Cứ thế nối dòng đào hố vô thường, kiếp kiếp đời đời không thay đổi tri
kiến, không thay đổi lối sống.
Tập thấy cơ thể ta và
người chỉ là những tập hợp vô thường đầy khốn khổ. Do đây giải thoát khỏi những
hiểm nguy của tham ái.
Nghĩ đến cái chết, đến sự
hủy diệt, ta sẽ không quyến luyến cuộc đời. Do đó tâm được hoan hỉ và
định tâm. Bởi biết sự vật đúng chân tướng của nó, ta không bị ràng buộc.
Nếu chúng ta không quán
cái chết và tính tất nhiên của nó, chúng ta sẽ không có sự chuẩn bị, chúng ta
sẽ trở nên mất chánh niệm khi cái chết đến, nhất là đối với người thân trong
gia đình, bạn bè hay chính bản thân chúng ta. Vì vậy, hãy chuẩn bị hành trang
tâm lý cho cái chết thanh bình. Nếu chúng ta để đời sống của chúng ta chạy theo
vật chất thì chúng ta sẽ chết trong lo âu và tiếc nuối. Ngược lại, nếu chúng ta
sống hết lòng phục vụ mọi người với tấm lòng từ bi thì chúng ta có thể chết với
tâm an ổn, hạnh phúc. Thế nên phương pháp tốt nhất chuẩn bị cho sự chết là hãy
sống một đời sống tận tụy phục vụ con người với trọn vẹn lòng yêu thương của
mình.
Phần đông chúng ta bị
nghiệp và các thứ cảm xúc ngăn che không cho thấy bản tánh. Những hành nghiệp
tiếp tục trói buộc chúng ta vào vòng sanh tử không cùng tận. Bởi thế mọi sự
đang bấp bênh, tùy thuộc cách ta đang sống, suy nghĩ ngay giờ phút này. Nếp
sống hiện tại của ta có ảnh hưởng đến suốt kiếp vị lai.
Đó là lý do cấp thiết
khiến ta phải chuẩn bị con đường của mình với thái độ thông minh. Cần tránh
thảm kịch quay tròn trong 12 nhân duyên khổ nhọc. Kiếp sống này là thời gian và
nơi chốn duy nhất cho ta chuẩn bị. Ta chỉ có thể thực sự chuẩn bị bằng cách trở
về chân tâm. Tổ Liên Hoa dạy: ‘Đời người ngắn ngủi, đâu có thời giờ để tâm lang
thang. Cần thầy nghe quán tưởng không xao lãng để cầu giác ngộ. Có ba dụng cụ
là văn, tư, tu có thể giúp chúng ta thấy được sự thật ta là ai và thể hiện niềm
vui giải thoát gọi là trí vô ngã.’
Sống và chết là một
chuyển tiếp. Đức Phật không can thiệp vào đường đi của nghiệp lực. Đức Phật chỉ
giảng về cơ cấu và tác động của nó. Nguồn gốc của tái sanh là tham sân si. Mà
tham sân si được vẽ trên nền xanh hư vọng nghĩa là huyễn hóa không có, vì thế
nhà thiền gọi là không gốc:
“Vốn từ không gốc,
Từ không mà đến,
Lại từ không mà đi,
Ta vốn không đến đi,
Tử sanh làm gì lụy.” (15)
Từ không mà đến,
Lại từ không mà đi,
Ta vốn không đến đi,
Tử sanh làm gì lụy.” (15)
“Sanh từ chỗ nào đến?
Chết sẽ đi nơi nào,
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.” (16)
Chết sẽ đi nơi nào,
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.” (16)
Đức Phật dạy chúng ta có
năm pháp bất định là:
- Mạng
sống bất định: mạng sống là tuổi thọ, chất ấm, thức thứ tám duy trì mạng
căn, là năm uẩn, là sáu căn, sáu thức hoạt động… Nó bất định vì chúng ta không
biết khởi thủy của nó khi nào và chung cuộc khi nào. Nó không chủ thể, nó
muốn không sinh hoạt nữa thì không sinh hoạt nữa gọi là mạng sống đã dừng.
- Bịnh
tật bất định: do vi khuẩn nhập và theo đạo Phật là tứ đại khi hoà, khi
không hoà, khiến cho thân thể khi khoẻ, khi bịnh bất định.
- Thời
gian bất định: thời gian là sự biến dịch và vận hành thay đổi, ngày đêm
sáng tối, quá khứ, hiện tại và vị lai không dừng và không định lại một
chỗ.
Thời gian như ngựa ruỗi.
Trần thế như mây mờ. Đức phật biết tiết kiệm tối đa dù chỉ một phút, vì chết có
thể đến bất cứ lúc nào. Đối với người hiểu đạo thì thời gian là phương thuốc
nhiệm mầu để cảnh tỉnh vô thường, bồi dưỡng, tẩm bổ trí tuệ và kết quả hoa
hương.
- Chết
bất định: muốn chết là chết không theo ý mình cho nên bất định. Có khi
thật trẻ, có khi trung niên và có khi già mới chết. Có khi do bịnh mà
chết, do tai nạn và có khi không có nguyên nhân gì cả cũng ngã lăn đùng ra
chết. Chúng ta sanh một nơi, trú một nơi hay nhiều nơi và chết thường khó
định là nơi nào? Có thể là núi rừng hoang vắng, cao nguyên lộng gió, đại
lộ xe cộ, sông suối biển khơi, nơi chôn nhau cắt rốn, mồ mả tổ tiên, chùa
chiền tự viện…
Chết là sự gián đoạn một
kiếp người, gián đoạn của một hơi thở mà hơi thở thì rất mỏng manh.
- Nơi
sanh bất định: đây là cảnh giới tái sanh bất định (chớ không phải bịnh
viện chọn để sanh con), là cảnh giới hiện diện sau khi chết. Chết không
phải là hết mà là một gian đoạn chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống
khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này đến một cảnh giới khác.
Cứ thế mà làm
nhân, làm quả quyện nhau khiến bánh xe quay liên tiếp không dứt. Trong vòng
luân hồi cái chết và sống làm duyên cho nhau. Chết nơi này, sanh nơi khác,
chúng sanh có mặt ở một nơi thì cùng một lúc cũng có một chúng sanh vắng mặt ở
một nơi. Có khi chết sanh lại chỗ cũ cũng có. Muốn biết nghiệp tái sanh của
mình hãy nhìn nghiệp hiện tại của mình.
Mạng sống vốn bấp bênh, thân người luôn bịnh hoạn, thời giờ không ngừng bức bách, nơi chết lại vô chừng, chỗ tái sanh thì bất định. Hãy sống thu thúc giới hạnh và thanh tịnh.
Mạng sống vốn bấp bênh, thân người luôn bịnh hoạn, thời giờ không ngừng bức bách, nơi chết lại vô chừng, chỗ tái sanh thì bất định. Hãy sống thu thúc giới hạnh và thanh tịnh.
13. SƠ ĐỒ
12 NHÂN DUYÊN
Trong 12 nhân duyên, cái nhân làm duyên cho quả. Quả làm nhân cho duyên, tạo thành xâu chuỗi luân hồi vô tận mà sự sống và chết từ thiên thu đã không ngừng tái diễn. Nếu chia theo nhân quả chuyền níu của quá khứ, hiện tại, tương lai và ‘hoặc-nghiệp-khổ’ thì vòng 12 nhân duyên được hiểu như sau:
Trong 12 nhân duyên, cái nhân làm duyên cho quả. Quả làm nhân cho duyên, tạo thành xâu chuỗi luân hồi vô tận mà sự sống và chết từ thiên thu đã không ngừng tái diễn. Nếu chia theo nhân quả chuyền níu của quá khứ, hiện tại, tương lai và ‘hoặc-nghiệp-khổ’ thì vòng 12 nhân duyên được hiểu như sau:
12 nhân duyên tùy ý đoạn
được một cái nào thì các cái kia đều tan rã.
Hễ nhân đã đoạn thì không còn hạt giống nữa.
Hễ duyên đã đoạn thì không còn cảnh phụ trợ.
Đức Phật kết vòng 12 nhân duyên như sau:
“ Hai pháp có thể biết và phải thông suốt là danh và sắc;
Hai pháp có thể biết và phải tận trừ là vô minh và ái dục;
Hai pháp có thể biết và phải thực tập là giới và định;
Hai pháp có thể biết và phải chứng ngộ là giải thoát và trí tuệ”.
Hễ nhân đã đoạn thì không còn hạt giống nữa.
Hễ duyên đã đoạn thì không còn cảnh phụ trợ.
Đức Phật kết vòng 12 nhân duyên như sau:
“ Hai pháp có thể biết và phải thông suốt là danh và sắc;
Hai pháp có thể biết và phải tận trừ là vô minh và ái dục;
Hai pháp có thể biết và phải thực tập là giới và định;
Hai pháp có thể biết và phải chứng ngộ là giải thoát và trí tuệ”.
(1) Dhammapala, tr. Ven.
Narada Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) kệ số 1.
(2) Dhammapala, (versse)
kệ số 2.
(3) Xem Web:
www.buddhismtoday.com, phần 22b
(4) Dhammapala, (versse)
kệ số 80.
(5) Nt, tr. 354-7.
(6) Dhammapala, câu 201.
(7) Dhammapala, tr. Ven.
Narada Maha Thera, Maha Bodhi in Sarnath, 2000, (versse) câu 344.
(8) Nt, câu 336.
(9) Nt, câu 40.
(10) Nt, câu 349.
(11) Nt, câu 211.
(12) Nt, câu 214.
(13) Nt, câu 218.
(14) Kinh Lăng Nghiêm, tr. 53-5.
(15) Thiền sư Như Trừng
Lân Giác.
(16) Thiền sư Hương Hải.
Tranh vẽ cái đuôi của con
quỷ dài vô tận, vô thủy và vô chung, nghĩa là trong khi già bịnh vẫn ngậm vô
minh để rồi lại chuyển vần đủ 12 vòng. Cứ thế xoay quanh mãi mãi, thành vòng
tròn không có đầu đuôi, làm nhân làm quả lẫn nhau không cùng không tận.
Hãy quán sát dòng vận
hành của tâm:
Nếu tâm làm năm nghịch,
mười ác là nghiệp nhân địa ngục;
Bỏn xẻn, si tướng làm ngạ
quỷ;
Tham, sân, si nhẹ làm bàng
sanh;
Tranh hơn thua làm
A-tu-la;
Năm giới kiên trì làm
nhân đạo;
Mười thiện kiêm thiền
định mở cửa cõi trời;
Chán khổ sanh tử ưa vui
tịch diệt là thánh Thanh Văn;
Biết 12 nhân duyên, tánh
không là thánh Duyên giác;
Lục độ, tự lợi, lợi tha
là chánh nhân bồ tát.
Tâm thanh tịnh bình đẳng,
viên dung vô ngại là pháp giới công đức.
Thế nên trong tranh thập
pháp giới vẽ chữ Tâm chính giữa.
QUỶ VÔ THƯỜNG
Toàn bánh xe luân hồi
quay trong lửa vô thường. Từ địa ngục đến cõi trời đều nằm trong móng vuốt của
quỷ vô thường (sanh già bịnh chết). Đức Phật dạy vẽ quỷ vô thường có ba mắt, vì
chính vô thường đã đánh thức các thánh xuất thế (con mắt thứ ba là mắt thánh).
Trong khi già bịnh vẫn
ngậm vô minh để rồi lại chuyển vần đủ 12 vòng. Cứ thế xoay quanh mãi mãi, thành
vòng tròn không có đầu đuôi, làm nhân làm quả lẫn nhau không cùng không tận.
Toàn bánh xe luân hồi quay
trong lửa vô thường. Từ địa ngục đến cõi trời đều nằm trong móng vuốt của quỷ
vô thường. Đức Phật dạy vẽ quỷ vô thường có ba mắt, vì chính vô thường đã đánh
thức các thánh xuất thế (con mắt thứ ba là mắt thánh). Vô thường là cái duy
nhất ta nắm được. Cái gì đã sanh sẽ chết, đã tụ sẽ tan, đã dựng sẽ đổ, đã lên
sẽ xuống. Một tổng thể biến thiên làm nền tảng cho sự vật.
Tất cả khổ cực thế gian
nằm trong bốn chữ sanh tử luân hồi. Thân người rất khó được mà lại vô cùng dễ
mất. Tam đồ dễ vào mà rất khó ra. Thế gian trong địa ngục phải lấy số kiếp mà
tính đếm, vạn khổ nung đốt, không biết nơi đâu mà cầu cứu. Đền tội xong làm súc
sanh để trả nợ xưa. Từ bụng heo chui ra, tự nhận mình là heo. Đem tánh vô lượng
quang vào bào thai xú uế, nương gá bụng ngựa dạ trâu, thương tâm biết ngần nào.
Bảy đời Phật đi qua vẫn còn làm thân kiến, tám vạn kiếp sau vẫn chưa thoát
nghiệp bồ câu. Bỏ đãy da này mang đãy da khác, trải ngàn vạn năm mới được tướng
người. Bao lần chịu thân cách ấm, đâu còn trí sáng? Xúc thọ căn trần, sanh già
bịnh chết làm sao tự chủ? Và vì thế luân hồi tiếp tục.
Trong Lăng Nghiêm[1] giải
nghĩa luân hồi qua ba hình thức thế giới tiếp tục, chúng sanh tiếp tục và
nghiệp quả tiếp tục như sau:
1. Thế giới tiếp tục: Phú
Lâu Na bạch: Bạch Thế Tôn, nếu như hết thảy các thứ căn, trần, ấm, xứ, giới…
trong thế giới đều là tính thanh tịnh bản nhiên Như Lai tạng thì làm sao bỗng
nhiên sinh ra các tướng hữu vi như núi sông, đất liền, thứ lớp dời đổi trước
sau quanh lộn?
Đức Phật trả lời (về khởi
nguyên thế giới): Cái giác sáng suốt, hư không không hay biết, hai cái đối đãi
nhau, thành có lay động, nên có phong luân nắm giữ thế giới. Nhân hư không mà
sinh có lay động, phát minh tánh cứng, nên có kim luân nắm giữ thế giới. Biết
cái cứng thành có kim bảo, rõ cái lay động thì phong đại phát ra. Phong đại và
kim bảo cọ xát nhau, cho nên có hoả đại làm tính biến hóa. Ngọn lửa xông lên
đốt, kim bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi 10
phương.
Lửa bốc lên nước sa
xuống, giao nhau phát hiện, mà lập ra tánh cứng. Chỗ ướt là bể lớn kia, chỗ khô
là gò nổi, do cái nghĩa ấy trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên, trong gò
nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống.
Thế nước kém thế lửa, kết
thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước. Thế
đất kém thế nước, rút ra thành cây cỏ, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất,
vắt ra thì có nước.
Vọng tưởng giao xen phát
sanh, xoay vần làm chủng tử cho nhau, do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục.
2. Chúng sanh tiếp tục:
Lại nữa, Phú Lâu Na vọng tưởng chẳng phải gì khác, do tánh giác minh hoá ra lầm
lỗi, cái sở minh hư vọng đã lập thì phạm vi cái năng minh không vượt khỏi được.
Do nhân duyên âý, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu cái
vọng: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đã thành lập, do đó mà có chia ra thấy
nghe hay biết.
Đồng nghiệp (của những
diệu dụng thấy nghe hay biết) ràng buộc lẫn nhau mà thành những loại hợp, ly,
thành và hoá.
Cái thấy phát minh thì
các sắc phát ra, nhận rõ sự thấy thì thành có tư tưởng, rồi ý kiến khác nhau
thì thành ra ghét, tư tưởng đồng nhau thì thành ra yêu.
Lan cái yêu ra thành hạt
giống, thu nạp tưởng niệm, thành ra cái thai, giao xen phát sinh, hấp dẫn bọn
đồng nghiệp, nên có nhân duyên, tùy phần sở ưng mà có thấp sanh, noãn, thấp,
hoá sinh. Noãn chỉ do tưởng niệm mà sinh, thai do nhân ái tình, thấp sinh nhân
cơ cảm, hoá sinh nhân phân ly mà ứng hiện. Khi tình, khi tưởng, khi hợp, khi ly
thay đổi lẫn nhau nên các loài chịu nghiệp cũng theo đó mà lên xuống. Do nhân
duyên ấy chúng sanh tiếp tục.
3. Nghiệp quả tiếp tục:
Phú lâu Na, tư tưởng thương yêu ràng buộc lẫn nhau, yêu mãi không rời,
thì những cha mẹ con cháu trong thế gian, sinh nhau không ngớt, chúng sanh này
lấy dục tham làm gốc. Lòng tham, lòng yêu giúp nhau tăng trưởng, tham mãi không
thôi thì các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hoá sinh trong thế gian nay
tùy sức mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau, chúng sanh này lấy sát tham làm gốc. Lấy
thân người ăn con dê, dê chết làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến 10
loài chúng sanh chết sống, sống chết, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp dữ cùng sinh ra
tột đời vị lai, bọn này lấy đạo tham làm gốc. Người này mắc nợ thân mạng người
kia, người kia trả nợ cho người này, do nhân duyên ấy trải trăm ngàn kiếp,
thường ở trong đường sống chết. Người này yêu cái tâm, đức hạnh, tánh nết người
kia, người kia ưa cái sắc, dễ thương, đáng yêu, xinh xắn của người này, do nhân
duyên ấy trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong vòng ràng buộc.
Duy ba món sát đạo dâm
làm gốc và vì nhân duyên đó nghiệp quả tiếp tục.
Ba thứ tiếp tục điên đảo
này, đều do tánh sáng suốt rõ biết của giác minh, nhân rõ biết mà phát ra có
tướng, theo vọng tưởng mà kiếp chấp sinh ra, các tướng hữu vi núi sông, đất
liền thứ lớp dời đổi, đều nhân cái hư vọng ấy mà có xoay vần trước sau.
Đức Phật dạy: Tỳ kheo
không tự nấu ăn, gởi cái sống thừa tạm bợ trong ba cõi, quyết không ăn thịt
chúng sanh thì túc trái từ vô thủy trong một thời trả hết, cáo từ thế gian,
thoát hẳn các lậu, thị hiện chỉ đi về một phen, đi rồi không trở lại. Quyết
định rời bỏ cả thân tâm, thân thịt xương máu thành sở hữu chung của chúng sanh.
Đức Phật dạy phải quán sát thân này là bất tịnh và vô thường. Chúng ta (thế
gian) si mê, ngã quỵ trong phiền não, chịu quả báo sáu đạo, gia tăng thói xấu,
tạo thêm nghiệp ác, vòng luân hồi cứ thế xoay vần không cùng tận.
Chúng ta vâng lời Phật,
một mặt tự giác thấy lỗi lo sám hối. Một mặt quán vô thường, vô ngã để nhổ tận
gốc vô minh. Các kiết sử theo đây mà bật rễ. Trong không chấp ngã, ngoài không
chấp pháp bảo đảm bình an.
Cuộc đời không chấm dứt
với cái chết, lo rằng còn nhiều đời sau nữa. Đa số chúng ta không chuẩn bị cho
cái chết cũng như đã không chuẩn bị cho cái sống.
Milarepa, một thánh nhân
ở Tây Tạng đã nói: ‘Tôn giáo của tôi là làm sao để sống và chết không ân hận’.
Cổ đức thường nói: ‘Sanh ký, tử quy’. Coi cuộc đời hiện tại là một quán trọ,
con người là lữ khách đến để rồi đi. Có người nào điên mà đem hết tiền của, cẩn
thận trang hoàng căn phòng khách sạn mà mình chỉ mướn có vài ngày.
Chúng ta đã phí cả một
đời để theo đuổi những hư vọng để lo cho nhà trọ trong khi mình sẽ đi. Nhịp
điệu đời sống rộn ràng đến nỗi không có thời gian để nghĩ đến chân lý. Loài
người trọn đời lo lắng xếp đặt hết việc này sang việc khác chỉ để thình lình
cái chết sập đến mà họ hoàn toàn không chuẩn bị. Chỉ ai thấy rõ tánh mong manh
của đời sống mới biết sự sống quý biết ngần nào.
Luận Nguyên thủy và Luận
Đại thừa đồng thanh nhắc chúng ta rằng ai ai cũng có ba thứ hữu dư: 1) Tập khí;
2) Báo chướng; 3) Phiền não. Từ nhiều kiếp ta đã tạo vô biên tội ác. Những tội
nặng đã trả quả ở địa ngục, ngạ quỷ rồi. Tham ái nhẹ tái sanh làm loài chim cá;
sân hận nhẹ tái sanh làm loài rắn, mèo, hổ, báo; ngu si nhẹ tái sanh làm loài
voi, heo, ruồi, kiến. Nay còn dư báo phải trả đền:
1) Vì tập khí nên xuất
gia dễ phạm sát đạo dâm vọng hay là Phật tử tại gia nhưng các giới giữ vẫn
không được trọn vẹn.
2) Vì dư báo nên câm điếc
hoặc gặp nhiều hẩm hiu, các thứ chướng nạn.
3) Dễ bị phiền não chi
phối khó điều ngự được. Vì phiền não nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham sân si để
đời đời đi lại trong tam đồ.
May mắn là kết quả của
thiện nghiệp. Rủi ro là kết quả của ác nghiệp. Nếu có trí tuệ thì trường hợp
nào cũng là tiến bộ. Người này giác tỉnh mỗi khi gặp tai nạn liền biết là trả
nghiệp, coi đây như cái chổi để quét sạch tội xưa.
Thiền sư Viên Chiếu: Tất
cả chúng sanh từ đâu tới, sau khi trăm tuổi sẽ về đâu? – Rùa mù soi vách đá,
trạch què leo núi cao.
Nicolem thưa rằng: Người
đã già thì sanh lại làm sao được? Có thể nào trở lại bụng mẹ và sanh lại lần
thứ hai sao? Chúa Jesus đáp: … Chớ lấy làm lạ về điều ta đã nói với người: Các
ngươi phải sanh lại. Gió muốn thổi đi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng động nhưng
chẳng biết gió từ đâu đến và cũng không biết đi đâu… Quả thật, quả thật, ta nói
cùng người, ta nói điều mình biết, xác quyết điều mình đã thấy. Còn các ngươi
chẳng hề nhận lấy lời chứng của ta. Ví bằng ta nói các việc về đất (cụ thể) các
ngươi còn chẳng tin, huống hồ ta nói các việc thuộc về trời (trừu tượng) thì
các ngươi tin sao được…” (Jean)
Đức Phật khi thành đạo
xem loài người như một ao sen: một số còn nằm trong bùn, một số vượt khỏi bùn
nhưng còn nằm trong lòng nước, một số vươn lên mặt nước, một số vượt mặt nước
đứng trong hư không, nở hoa toả hương. Chúng ta xem xét mình thuộc loại nào?
Nếu còn ở dưới nước thì coi chừng, chẳng thoát được lũ cá rùa rúc rĩa, còn ở
luân hồi dù ở cõi trời, người vẫn không thể là chỗ bình an được. Trí tuệ xuất
thế chúng ta cần có thiện tri thức đồng tâm, đồng lực, đồng nguyện, đồng hành
như những giọt nước giúp đỡ sức mạnh cho nhau. Phải ở trong dòng mới xuôi về
biển rộng.
Vô minh là hoặc đạo,
nghiệp là tập đạo. Do mê hoặc mà gây ra hành nghiệp nên nói vô minh duyên hành.
Đức Phật dạy khoen ‘hành’ vẽ ông thợ đồ gốm đang nặn chiếc bình. Bình là kết
quả theo ý muốn của ông thợ, theo hai bàn tay khéo léo hay vụng về của ông mà
ra. Nghiệp cũng vậy, thường xuyên thay đổi theo tâm biến hoá hoặc tùy theo dòng
vận hành của tâm. Một ác nhân ngày hôm nay có thể trở thành một thánh nhân ngày
mai. Một người tốt có thể vì một lý do nào đó trở thành tội nhân.
Dòng nghiệp lực còn được
cung cấp bằng những khối nước bùn lầy tham sân si, còn tiếp tục chảy. Tái sinh
là kết quả tất nhiên của nghiệp lực. Ví như ánh sáng đèn điện, bóng đèn vỡ, ánh
sáng tắt, nhưng vì điện lực không mất nên ánh sáng sẽ trở lại với một bóng đèn
khác hoặc vuông, tròn, neon, ống tiếp, đèn ngủ với nhiều màu sắc. Thân ta dù
tan rã, nghiệp lực còn tồn tại, hẳn còn tái sanh. Vậy luân hồi chỉ ngừng khi
chúng ta không còn tạo nghiệp. Tóm lại, quả
khổ chuyền theo nghiệp, nghiệp chuyền theo tâm. Chỉ cần soi sáng cái tâm là hết
khổ. Vì thế ánh sáng giác
ngộ của Tam bảo là cứu tinh của muôn loài. Tam bảo thường trụ thế gian là nhờ
tăng ni kế tiếp truyền đăng, chúng sanh nương tam bảo thoát khổ, tiến lên quả
vị thánh hiền, cho đến ngày thành Phật.
Biết thân như đồ gốm
Hộ tâm như thành trì
Dẹp ma với gươm trí
Hãy giữ gìn chiến thắng
Vượt ngoài mọi nhiễm ô. [2]
Muốn vào tri kiến Phật,
trước hết phải xa lìa tri kiến chúng sanh. Cần phải bỏ tay ấn mắt để thấy mặt
trăng thật. Việc đầu tiên là phát tâm bồ đề, chớ tham luyến trần duyên. Trăng
đáy nước là một bóng ảnh giả, chỉ có tướng sáng mà không có lực dụng chiếu soi
phá tối. Vọng tâm do nhân duyên sanh. Nhân là nghiệp. Duyên là sáu trần. Như
người có nghiệp tham, thấy tiền liền khởi tâm ăn cắp, người ngu si sống với
vọng tâm, không giác tỉnh (sáu căn huyễn hoá, sáu trần ảo ảnh, sáu thức mê
lầm), khởi tưởng chấp ta, chấp cảnh, rông rỡ sát đạo dâm vọng, khổ báo chướng
nạn chẳng thể trở về chân tâm bản tánh, pháp thân thường trụ.
Quán bất tịnh để tiêu ba
độc tham sân si, quán vô thường để giải thoát ngã mạn tự ái, quán hơi thở để
điều hoà cả thân và tâm.
Ngửa lên nhìn mặt trăng
thật, nghĩa là vận sức trí tuệ quay về sống với bổn giác, khi ấy sẽ thấy năm ấm
hư vọng vốn là Như Lai tạng. Trong đêm dài sanh tử, muôn loài chìm đắm. Muốn
trở về nhà phải nương mặt trăng thứ hai tức là thức tinh nguyên minh, làm nhân
địa tu hành để vong trần hợp giác. Có lần đứng bên Xá Lợi Phất than rằng:
‘Thương thay! những kẻ mò trăng đáy nước đến nỗi chết chìm’. Phật đáp; ‘Đúng
thế, nhưng thật đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng’.
Chúng ta không quên vô số
sinh linh đang quằn quại trong vòng ‘Hoặc Nghiệp Khổ’, chúng ta nguyện cố gắng
và cố gắng hơn nữa, nương ánh sáng trí tuệ và gương mẫu từ bi của chư Phật, bồ
tát tìm về ánh trăng chân thật để trên đền bốn ân, dưới cứu khổ muôn loài.
Kinh Pháp Cú tả sự tự tại
của bậc giải thoát:
“Tài sản không tích chứa,
Ăn uống biết suy tư,
Tự tại trong cảnh giới,
Không vô tướng giải thoát,
Như chim bay hư không,
Hướng đi thật khó tìm.”[3]
Kinh Lăng Nghiêm trong
mục ‘Chỉ Hai Thứ Cỗi Gốc Để Phân Biệt Mê và Ngộ’[4], Đức Phật bảo A-nan: Tất cả
chúng sanh từ vô thủy đến nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm
lại như chùm quả ác xoa.
Những người tu hành không
thành được đạo Vô thượng bồ đề đến nổi thành Thanh văn, Duyên giác hay thành
ngoại đạo, chư thiên, ma vương hay bà con quyến thuộc của ma đều do không biết
hai chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua
nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể nào thành được.
Thế nào là hai thứ cỗi
gốc:
1) Cỗi gốc sống chết vô
thủy: tức như ông ngày nay cùng các chúng sanh dùng tâm phan duyên mà làm tự
tánh;
2) Thể bản lai thanh tịnh
bồ đề niết bàn vô thủy thì như hiện nay cái tính bản minh thức tinh của ông
sinh ra các duyên mà bị bỏ rơi.
Do chúng sanh bỏ rơi cái
bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng
vào trong lục đạo.
Ông không nghe Như Lai
nói: các pháp phát sinh là duy tâm biến hiện. Tất cả nhân quả, thế giới, vi
trần đều nhân cái tâm thành có thể tính.
A-nan, như trong thế giới
hết thảy sự vật hiện có, cả đến ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, gạn xét cỗi
gốc, đều có thể tính, dầu cho đến hư không cũng có tên, có tướng, huống chi cái
tâm sáng suốt thanh tịnh nhiệm màu làm cho hết thảy sự vật có thể tính mà lại
tự mình không có thể tính.
Chúng sanh lấy động làm
thân, lấy động làm cảnh, niệm niệm sanh diệt, quên bỏ chân tâm, điên đảo tạo
nghiệp, oan uổng luân chuyển, thật là đáng thương, nhưng dù đọa lạc ba đường
hay thành thánh quả, tánh thấy tánh nghe vẫn không biến đổi. Kinh Lăng Nghiêm
dạy đó là Như Lai mật nhân, đích chỉ thức tinh nguyên minh là căn bản bồ đề.
Nhà thiền gọi
là:
Có thì muôn sự có,
Không thì muôn sự không,
Có không trăng đáy nước,
Đừng mắc có cùng không.[5]
Muôn pháp về không không chỗ nương,
Chân như lặng lẽ hiện tỏ tường,
Thấu tột nguồn tâm không chỗ chỉ,
Nước tâm bóng nguyệt bặt nghĩ lường.[6]
Bậc trí sát na, sát na
gột trừ cấu uế như anh thợ vàng cần mẫn lọc trừ bụi đất ra khỏi chất vàng ròng.
Phải thiết tha đổi thân sanh già bịnh chết này thành giới thân tuệ mạng thì
chúng ta không làm tử thi bẩn mặt đất mà được khen là lành thay sự sống có phẩm
chất người.
Quán sát trong thân những
thứ kiên ngưng thuộc về đất, lưu nhuận là nước, nhiệt lực là lửa, tác động
thuộc gió, không gian thuộc hư không, phân biệt thuộc tâm thức. Quan sát tính
cách tương quan, tương duyên giữa ta và vạn vật. Mặt trời nằm ngoài cơ thể,
nhưng nếu không có mặt trời thì thân này đâu có sống được.
Can đảm nhìn vào sự thật
sẽ hết bi quan mà biết quý đời sống, làm thế nào để khỏi phí uổng kiếp người
khó được, hoà vui với tất cả xung quanh như niềm vui của Trịnh Công Sơn qua bài
hát ‘Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui’:
“Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui.
Chọn những bông hoa và nụ cười.
Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy,
Để mắt em cười tựa lá bay
Và như thế, tôi sống vui từng ngày
Và như thế, tôi đến trong cuộc đời
Và như thế, tôi đã yêu cuộc đời này bằng trái tim tôi.”
Chúng ta thuộc căn cơ hạ
hạ, nội phần chúng sanh quá nặng nề. Ngoại phận thánh hiền gần như chỉ được học
trên kinh điển, chính bản thân không có chút giác tỉnh.
Vô số các chuyện của các
bậc thánh hiền đáng để cho chúng ta suy gẫm và soi rọi lại cuộc đời mình. Chính
những niềm vui, những giây phút để suy tư về đời sống và các lời nói bất hủ của
các danh nhân là bước đầu để chuyển hoá nội tâm ta, để ta thắng lướt hoàn toàn
một phần tập khí xấu xa còn âm thầm đọng lại. Và sự chuyển hóa nội tâm là nền
tảng vững chắc cho sự chuyển nghiệp kế tiếp, là khởi điểm của công cuộc chuyển
hoá nội tâm.
Tổ Lâm Tế xướng rằng:
“Tùy duyên tiêu cựu nghiệp,
Nhậm vận trước xiêm y”.
Tạm dịch:
“Tùy duyên tiêu nghiệp cũ,
Hồn nhiên mặc áo xiêm.”
Taici, nhà thơ Nhật bản
nói:
“Giữa mùa thu tàn,
Vươn lên từ rác,
Một cành triêu nhan.”
Hay Bashô:
“Ta nhìn sâu xa,
Bên hàng dậu nở,
Cành Nazuna.
Ta nhìn sâu xa,
Dưa nằm trong cỏ,
Hé mấy nụ hoa.”
Phải nghiên cứu kỹ lưỡng
ba vòng Hoặc-Nghiệp-Khổ, tin chắc lý nhân quả, thấy được nụ hoa Phật tánh bản
hữu của mình mới hy vọng có thể hoàn thành chí nguyện giải thoát cho mình và
người.
Kính chúc tất cả quý Phật
tử thành công trong sự nghiệp giải thoát ngay tại thế gian này.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ
Tát ma ha tát.
0 comments:
Đăng nhận xét